Hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu

Hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu. Khi nào thì Hợp đồng bị coi là vô hiệu, các quy định về vấn đề này.

Đã từ lâu, hợp đồng là một hình thức thiết lập quan hệ trong đời sống xã hội. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của Hợp đồng đã chứng minh đó là một hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá và tiền tệ. Vai trò, vị trí của chế định Hợp đồng ngày càng được khẳng định trong mọi hệ thống pháp luật. Khi nền kinh tế càng phát triển, xã hội văn minh thì việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ Hợp đồng càng cần thiết, càng được coi trọng và hoàn thiện.

I.Tổng quan pháp luật trong nước về Hợp đồng trong kinh doanh

Ở nước ta, việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ Hợp đồng đã được áp dụng từ lâu, song nó chỉ được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bộ luật Dân sự được ban hành năm 1996. Đây là một Bộ luật cơ bản được xây dựng trên cơ sở khung pháp luật kinh tế thị trường ở nước ta và tiến độ lập pháp tương đối tiến bộ. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự vẫn chưa thể hiện hết “tầm cỡ” là đạo luật chủ yếu chi phối tất cả các quan hệ Hợp đồng.

Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (được ban hành ngày 25/09/1989), đây là văn bản pháp luật đã điều chỉnh quan hệ kinh tế một cách chung nhất trong bối cảnh những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Ngoài những thành công của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế trong việc quản lý kinh doanh, góp phần tăng cường pháp luật trong lĩnh vực kinh tế bước đầu tạo đà cho việc sản xuất kinh doanh theo pháp luật trong cơ chế kinh tế mới thì Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày càng tỏ ra không còn phù hợp với thực tiễn sôi động của nền kinh tế thị trường.

Chính vì vậy, cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về sự tồn tại, sửa đổi hay huỷ bỏ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hoặc đưa những chế định Hợp đồng trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế vào Bộ luật Dân sự.

Luật Thương mại được ban hành ngày 10/08/1997, có hiệu lực từ ngày 01/01/1998. Là văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ trong hoạt động thương mại có tác động lớn đến môi trường pháp lý kinh doanh hiện nay. Tuy nhiên, sau hơn 07 năm có hiệu lực áp dụng cũng đã bộc lộ nhiều điểm bất cập và thiếu đồng bộ (không nói là có những điều mâu thuẫn) so với những đạo luật khác như Bộ luật Dân sự.

Việc sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Đảng và Nhà nước. Nó cũng nằm trong mục tiêu là cải cách tư pháp mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đặt ra. Việc chúng ta tập trung góp ý sửa đổi Bộ luật Dân sự để xứng đáng vị trí, tầm vóc trong hệ thống pháp luật nói chung này như để nó trở thành một đạo luật “mẫu” trong việc điều chỉnh các quan hệ Hợp đồng hiện nay là một việc làm cần thiết.

Sự ra đời của Bộ Luật dân sự 2005 và luật thương mại 2005 là bước cải cách lớn để hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trước quan hệ xã hội phức tạp phát sinh. Sự cấp thiết đòi hỏi ban hành quy định mới phù hợp với thực tiễn để điều chỉnh quan hệ dân sự, kinh tế đang được đặt ra. Bộ Luật Dân Sự 2005, Luật Thương Mại 2005 ra đời đánh dấu sự đổi mới, tiến bộ trong thời kì hội nhập. Là một chế định quan trọng trung tâm trong Luật Dân Sự Việt Nam cụ thể trong Bộ Luật Dân Sự 2005 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chế định hợp đồng đã được khẳng định với 205 điều luật trên tổng số 777 điều luật (từ điều 388 đến điều 593) đó là chưa kể đến 45 điều quy định về hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất (từ điều 693 đến điều 732); Có thể khẳng định, chế định hợp đồng không chỉ là một trong những chế định xương sống của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005), mà bao gồm cả một số Luật chuyên ngành như Luật Thương mại 2005, Bộ luật Hàng hải, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bất động sản.

II. Một số khía cạnh quy định của nước ngoài đối với Hợp đồng trong kinh doanh

Khi thành lập doanh nghiệp ai cũng muốn doanh nghiệp phát triển đúng hướng, thành công, tạo dựng chỗ đứng cũng như vị thế của mình trên thương trường; doanh nghiệp luôn hướng mình là doanh nghiệp tiên phong trong những lĩnh vực mới và mạnh mẽ trong lĩnh vực không mới. Có rất nhiều yếu tố để đánh giá cũng như quyết định sự thành công của doanh nghiệp mà không phân định đó là yếu tố chính hay phụ mà thiếu nó thì khó đạt được mục đích. Không chỉ vì bản thân muốn thử sức mà những doanh nghiệp Việt Nam chúng ta luôn ấp ủ phát triển kinh tế, phát triển đất nước lên tầm cao mới. Sự trả giá của những doanh nghiệp đi trước cả trong nước và thế giới đó là những gì mà doanh nghiệp trẻ Việt Nam phải học hỏi; để không đi vào vết xe đổ.

Sự chú trọng đến quy trình soạn thảo và kí kết hợp đồng là một trong những bí quyết của các doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ khi nói đến ông Bill Gate- người mà đã đi vào lịch sử với những thành tựu công nghệ mà ông đã đạt, khi tuyển dụng thông qua phỏng vấn ứng viên vào Tập đoàn Microsoft đã đặt câu hỏi: “theo các bạn đâu là yếu tố duy trì sự ổn định và thành công của các hoạt động kinh doanh ngày nay”. Một ứng viên tiêu biểu đã trả lời: “đó chính là tính chặt chẽ của hợp đồng”. Mọi người khi đó nghi ngờ về tính nghiêm túc của câu trả lời nhưng Bill Gate thì không, ông đã cho ứng viên này điểm tối đa và nhận ứng viên này vào làm việc; một người quản lý- người cả thế giới biết đến nghị lực, lòng quyết tâm cũng như tài năng theo đuổi ước mơ và đã đạt thành công lớn cho bản thân và nhân loại; Bill Gate đánh giá cao về tính chặt chẽ của hợp đồng.

Khi tham gia quan hệ làm ăn, các bên phải trải qua những quá trình nhất định rồi đi đến thống nhất những cam kết. Tuy nhiên sự tin tưởng nhau cũng cần có sự rõ ràng,  điều này thông qua bản hợp đồng giấy trắng mực đen. Khi có sự vi phạm của một bên thì bản hợp đồng là căn cứ để bảo vệ bên kia, tuy nhiên nếu như bản hợp đồng mà vô hiệu tức là không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật, khi đó kéo theo những hậu quả pháp lý nhất định.

Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kĩ thuật, nền kinh tế nước ta phải phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường để tạo nên uy tín và sức mạnh cho nước ta trên trường thế giới. Tham gia sân chơi, khi Việt Nam là thành viên của tổ chức kinh tế thế giới và là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, nền kinh tế nước nhà cần phải vững mạnh, hệ thống pháp luật liên quan cần phải thông thoáng, nhưng chặt chẽ để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm , thu hút đầu tư và hơn hết các cá nhân, tổ chức, pháp nhân hoạt động thương mại cần thiết phải bản lĩnh, thông minh và không chỉ dừng lại ở biết luật mà còn hiểu đúng, hiểu sâu và nắm bắt kịp thời, chính xác các qui định pháp luật hiện hành để thu lợi nhuận và hạn chế rủi ro cho chính bản thân. Công cụ để xác lập quyền, nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động thương mại là hợp đồng. Do đó, hợp đồng phải tuân thủ theo qui định của pháp luật để có hiệu lực ràng buộc các bên kết ước, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của những chủ thể kinh doanh chân chính. Bất cứ một vấn đề nào, khi nắm được những kiến thức cơ bản cũng mang lại những lợi ích nhất định. Khi có những tranh chấp, rủi ro bất ngờ có liên quan đến hợp đồng và hợp đồng thương mại bị tuyên bố vô hiệu sẽ khó tránh khỏi tổn thất. Cho nên, phải hiểu sâu, hiểu rõ các qui định của pháp luật hiện hành về các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại để tiến hành kinh doanh có hiệu quả buôn bán. Ngày nay, rất nhiều doanh nghiệp khi kí kết hợp đồng lợi dụng quy định của pháp luật để khi không có lợi thì yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu.

Do vậy, xuất phát từ sự quan trọng của hợp đồng trong kinh doanh và thực tiễn trong việc lợi dụng hợp đồng để tuyên vô hiệu, gây hoang mang, bất ổn định của những doanh nghiệp chân chính, nên việc nghiên cứu “Hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay

Việt Nam đã thống nhất sau nhiều năm trải qua chiến tranh, bom đạn, kinh tế lạc hậu, trật tự xã hội bị đảo lộn, nhờ sự đổi nhiều chính sách của Đảng và nhà nước qua từng thời kì chuyển biến của xã hội, đất nước và trên thế giới theo thời gian đã đi vào ổn định, bản chất của nhà nước thể hiện qua chế độ chính trị và được cụ thể qua các quy định của pháp luật.

Tự do ý chí thỏa thuận trong  giao dịch dân sự, kinh tế xuất phát từ việc pháp luật hiện đại thừa nhận quyền bình đẳng của con người và quyền tự do cá nhân. Sự tự do ý chí này vẫn tuân thủ những quy định của pháp luật nói chung để đảm bảo những chính sách quản lý của nhà nước cũng như đảm bảo cho sự cân bằng xã hội. Ví dụ như A và B thỏa thuận hợp đồng mua bán xe máy, điều khoản thanh toán của hợp đồng là bên A trả cho B bằng ngoại tệ trong khi A không thuộc trường hợp được pháp luật thừa nhận cho việc thanh toán bằng ngoại tệ này, bởi lẽ nhà nước kiểm soát dòng tiền ngoại tệ để điều chỉnh, quản lý chính sách tiền tệ, ngoại tệ, đây cũng là mục đích đảm bảo cả yếu tố chính trị cho nhà nước.

Trên thế giới các quốc gia đưa ra khái niệm hợp đồng khác nhau nhưng có cùng bản chất đó là sự thỏa thuận là kết quả của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những trường hợp luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên

Định nghĩa “hợp đồng” cũng được qui định tại Điều 1-201 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên…”.

Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai có nêu một định nghĩa cụ thể hơn: “Hợp đồng là một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cưỡng chế cuả pháp luật, hoặc nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa vụ”. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định”. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý của các quốc gia khác trên thế giới.

Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định: “Hợp đồng theo qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với qui định của các luật khác”. Tương tự, theo qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”

Điều 388 BLDS Việt Nam 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên vềviệc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 BLDS Việt Nam (2005) cũng gần giống như qui định của Luật hợp đồng Trung quốc (1999) và đặc biệt là hoàn toàn giống với qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994).

Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ “hợp đồng”, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên.

Pháp luật Việt Nam chưa đưa ra khái niệm cụ thể nào về hợp đồng trong kinh doanh song có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng, ta có khái niệm về hợp đồng trong kinh doanh như sau: “hợp đồng trong kinh doanh là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ phát sinh giữa ít nhất một bên là thương nhân, nhằm mục đích lợi nhuận, bên không có mục đích lợi nhuận nhưng chọn Luật Thương Mại làm luật điều chỉnh”

Trong một nền kinh tế thị trường, hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng, các quan hệ xã hội ngày trở nên phức tạp, khi đó vai trò của hợp đồng là vô cùng quan trọng, là công cụ pháp lý thông dụng và quan trọng nhất trong việc kinh doanh buôn bán.

Một hợp đồng là kinh tế hay dân sự phụ thuộc vào chủ thể và mục đích theo đuổi. Theo quy định tại Điều 3 Luật thương mại được công bố 27/6/2005 quy định một số giao dịch được xem là hoạt động thương mại: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác, các hợp đồng thực hiện hoạt động thương mại này do Luật thương mại chi phối”. Mặt khác trong Bộ luật tố tụng dân sự 2005 lại quy định tòa dân sự xét xử cả tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động. Hiện nay pháp luật về hợp đồng tại Việt Nam nằm rải rác ở các văn bản có giá trị pháp lý khác nhau. Tuân thủ nguyên tắc về mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng thì các quy định chung của pháp luật về hợp đồng được quy định từ điều 388 đến 411 Bộ luật dân sự 2005 có thể áp dụng cho tất cả những hợp đồng khác nhau. Bên cạnh các quy định chung đó, Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định riêng cho những hợp đồng chuyên biệt. Đối với những vấn đề mà luật chuyên ngành điều chỉnh thì áp dụng quy định của luật chuyên ngành còn đối với những vấn đề mà luật chuyên ngành chưa điều chỉnh thì áp dụng những quy định của luật chung để điều chỉnh. Nói cách khác các hoạt động có tính chất thương mại nếu được quy định tại một luật riêng thì áp dụng luật riêng đó hay đã được quy định tại luật thương mại để điều chỉnh, các hoạt động thương mại không được quy định trong luật riêng khác và luật thương mại thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để điều chỉnh.

Quan hệ kinh doanh thương mại được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng. Theo luật doanh nghiệp, Hợp đồng kinh doanh, thương mại có bản chất của hợp đồng nói chung, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ thương mại. Luật doanh nghiệp, Luật Thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, song có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng. Từ đó cho thấy, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự.

Có thể xem xét hợp đồng kinh doanh, thương mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhiều vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật không có sự khác biệt với các hợp đồng dân sự, như: Giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu… Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được quy định trong pháp luật thương mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng (như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng…).

Hợp  đồng là công cụ phát triển đối với mỗi doanh nghiệp. Hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động hay hợp đồng thương mại đều đặc biệt có ý nghĩa trong mỗi giao dịch tương ứng của các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các cơ quan, đơn vị có hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự hiện là 2 dạng hợp đồng được doanh nghiệp sử dụng thường xuyên và dễ có sự nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn vô tình này có thể dẫn đến các hệ quả pháp lý không mong muốn đối với doanh nghiệp. Vì vậy, nắm được những điểm chung của 2 loại hợp đồng này đồng thời tôn trọng một số đặc thù của từng loại hợp đồng sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong quá trình xác lập và thực hiện các giao dịch nhằm đảm bảo mục đích của mình khi tham gia giao dịch.

III. Những điểm giống nhau giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng trong kinh doanh:

– Đều là những giao dịch có bản chất dân sự, thiết lập dựa trên sự tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận của các bên;

– Đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung của các bên tham gia giao kết hợp đồng;

– Hai loại hợp đồng này có một số điều khoản tương tự như: Điều khoản về chủ thể; đối tượng của hợp đồng; giá cả; quyền và nghĩa vụ của các bên; phương thức thực hiện; phương thức thanh toán; giải quyết tranh chấp phát sinh nếu có.

– Về hình thức của hợp đồng:

+ Một số hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại có thể giao kết bằng miệng (thực hiện chủ yếu qua sự tín nhiệm, giao dịch được thực hiện ngay hoặc những giao dịch đơn giản, có tính phổ thông, đối tượng giao dịch có giá trị thấp);

+ Hoặc bằng văn bản (được thực hiện chủ yếu ở những giao dịch phức tạp, đối tượng của hợp đồng có giá trị lớn hoặc do pháp luật quy định phải thực hiện bằng văn bản như: Vay tiền tại tổ chức tín dụng, bảo hiểm… (nhưng không có mục đích lợi nhuận). Đối với hình thức hợp đồng này tùy từng hợp đồng cụ thể pháp luật quy định bắt buộc phải công chứng hoặc thị thực mới hợp lệ (như mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất…). Tuy nhiên nếu các bên không công chứng hoặc chứng thực thì hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý và không bị coi là vô hiệu trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Ngoài ra những Trường hợp pháp luật không quy định bắt buộc phải công chứng thì các bên vẫn có thể thỏa thuận công chứng hoặc có sự chứng kiến của người làm chứng nhằm làm cho hợp đồng có giá trị pháp lý cao. Các loại văn bản cũng được coi là hợp đồng nếu hai bên giao kết gián tiếp bằng các tài liệu giao dịch như: Công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng và được sự đồng ý của bên kia với nội dung phản ảnh đầy đủ các nội dung chủ yếu cần có và không trái pháp luật thì được coi là hợp lệ.

+ Hợp đồng cũng có thể được giao kết bằng hành vi cụ thể: Thông thường đây là một dạng quy ước đã hình thành trên cơ sở thông lệ mà các bên đã mặc nhiên chấp nhận.

IV. Mặt khác, hợp đồng trong kinh doanh cũng có những điểm khác biệt để phân biệt với các hợp đồng khác:

Thứ nhất, về chủ thể hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được thiết lập giữa các chủ thể là thương nhân. Theo quy định của Luật Thương mại, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Điểm mấu chốt là tất cả chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại (thương nhân) đều phải có đăng ký kinh doanh, Thương nhân là chủ thể của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Luật Thương mại quy định về thương nhân nói chung và thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam.

Thứ hai, về hình thức hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể được thiết lập dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng kinh doanh, thương mại bằng hình thức văn bản (Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại…). Luật Thương mại cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu.

Thứ ba, về nội dung và mục đích của hợp đồng kinh doanh thương mại: mục đích của các bên trong hợp đồng kinh doanh, thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ thể hợp đồng không nhằm mục đích lợi nhuận giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì hợp đồng được áp dụng Luật Thương mại khi bên không nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.

Thứ tư, Về cơ quan giải quyết tranh chấp: Đối với tranh chấp thương mại phát sinh, nếu các bên không tự giải quyết được thì có thể nhờ cơ quan tòa án hoặc trọng tài giải quyết theo sự lựa chọn của các bên. Trong khi đó, đối với tranh chấp dân sự trọng tài không có thẩm quyền giải quyết mà các bên chỉ có thể đưa ra cơ quan tòa án.

V. Quá trình hình thành hợp đồng trong kinh doanh về cơ bản dựa trên quy định của Bộ luật dân sự

Giai đoạn thứ nhất: Đề nghị giao kết hợp đồng

Một bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng : “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.”

Về mặt hình thức, việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như:

  • Người đề nghị có thể gặp trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị trao đổi thỏa thuận hoặc có thể thông qua các đường liên lạc khác như đện thoại, liên lạc ở trên mạng Internet…Trong những trường hợp này thời hạn trả lời là một khoảng thời gian do hai bên thỏa thuận ấn định.
  • Đề nghị giao kết hợp đồng dân sự còn có thể được thực hiện bằng việc chuyển, gửi công văn, giấy tờ qua đường bưu điện…Trong trường hợp này thời hạn trả lời là một khoảng thời gian do bên đề nghị ấn định

Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.

Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực (Điều 391 Bộ luật dân sự 2005 được xác định như sau:

Do bên đề nghị ấn định hoặc nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó.

Các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:

  • Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
  • Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
  • Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
  • Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 392 Bộ luật dân sự 2005): Lời đề nghị mặc dù chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều đã có tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

– Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị.

– Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.

– Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới.

Huỷ bỏ đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 393 Bộ luật dân sự 2005):

Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 394 Bộ luật dân sự 2005):

Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp:

– Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;

– Hết thời hạn trả lời chấp nhận, chậm trả lời chấp nhận;

– Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;

– Khi thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực;

– Theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.

Sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề xuất (Điều 395 Bộ luật dân sự 2005):

Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới.

Giai đoạn thứ hai: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Chấp nhận giao kết hợp đồng thực chất là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị

a. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được hiểu như sau: (Điều 397 Bộ luật dân sự 2005):

Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.

Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời. Nếu việc trả lời được chuyển qua đường bưu điện, thì ngày gửi đi theo dấu bưu điện được coi là thời điểm trả lời, căn cứ vào thời điểm đó để bên đề nghị xác định việc trả lời đề nghị có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định.

b. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng (Điều 400 Bộ luật dân sự 2005):

Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Điều 404 Bộ luật dấn sự 2005 có quy định “Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết” có nghĩa rằng khi có sự thống nhất ý chí giữa bên đề nghị và bên được đề nghị giao kết hợp đồng, bên đề nghị giao kết hợp đồng phải thê hiện rõ ý muốn được giao kết, nội dung giao kết hợp đồng và xác định chủ thể được đề nghị cụ thể.

VI. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong kinh doanh và hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu

1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong kinh doanh

Luật thương mại không quy định cụ thể các điều kiện để hợp đồng trong kinh doanh có hiệu lực. Vì vậy, khi xem xét hiệu lực của hợp đồng trong kinh doanh, cần dựa trên điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định trong Bộ luật dân sự.

Căn cứ theo Điều 122 BLDS 2005 và các quy định có liên quan, có thể xác định Hợp đồng trong kinh doanh có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.

Khi tham gia hợp đồng trong kinh doanh, các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng kí kinh doanh đối với đối tượng kinh doanh nhất định. Trường hợp kinh doanh hàng hóa có điều kiện kinh doanh, thương nhân còn phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật. Người kí hợp đồng là người đại diện hợp pháp. Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 thì người đại diện đương nhiên theo pháp luật của các doanh nghiệp được xác định như sau:

  • Đối với doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại điện theo pháp luật.
  • Đối với công ty TNHH một thành viên, Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thì người đại diên theo pháp luật là Tổng giám đốc (Giám đốc), trừ trường hợp điều lệ công ty quy định chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật.
  • Đối với công ty hợp danh thì người đại diện theo pháp luật là các thành viên hợp danh.

Như vậy, đối với người đại diện theo pháp luật họ có quyền nhân danh doanh nghiệp để ký kết hợp đồng. Điều đó cũng có nghĩa là tất cả những người khác trong doanh nghiệp dù giữ bất cứ chức vụ gì đều không có quyền tự mình ký hợp đồng nhân danh doanh nghiệp mà họ chỉ có quyền ký hợp đồng theo sự uỷ quyền của người đại diện theo pháp luật và chỉ được ký hợp đồng trong phạm vi uỷ quyền.

Tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả các doanh nghiệp đều thực hiện theo đúng những quy định của pháp luật, có rất nhiều trường hợp Phó giám đốc, trưởng phòng, trưởng chi nhánh, trưởng các bộ phận ký hợp đồng không được sự uỷ quyền của người đại diện theo pháp luật. Cũng có trường hợp có giấy uỷ quyền nhưng người ký hợp đồng đã ký vượt quá phạm vi uỷ quyền, hay giấy uỷ quyền không còn thời hạn uỷ quyền. Tất cả những trường hợp trên, nếu căn cứ vào quy định của pháp luật thì hợp đồng có nhiều khả năng bị tuyên bố vô hiệu, mà hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu sẽ gây ra thiệt hại cho một bên hoặc cả hai bên. Nguyên nhân xã ra tình trạng này là do trong quá trình hợp tác các bên thường tin tưởng và không quan tâm nhiều đến khía cạnh pháp lý khi giao kết hợp đồng.

Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng trong kinh doanh không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định (Điều 128 BLDS 2005). Xuất phát từ lợi ích công cộng mà pháp luật sẽ có các quy định cụ thể liên quan đến việc cấm chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định hoặc đưa ra những quy định xác định cụ thể loại tài sản không thể là đối tượng của hợp đồng .

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng (Điều 128 BLDS2005). Như vậy, tính trái đạo đức là những chuẩn mực ứng xử của cộng đồng được thừa nhận và tôn trọng.

Tùy thuộc vào chính sách của nhà nước nhằm quản lý nền kinh tế, quản lý trật tự xã hội mà đối tượng kinh doanh được quy định khác nhau, có thể bị hạn chế, hoặc bị cấm.

Thứ ba, hợp đồng trong kinh doanh được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng theo quy định của pháp luật

Đó là: tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, ngay thẳng.

Thứ tư, hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

Hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác định bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên đối với những trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được lập thành văn bản mới có hiệu lực, khi đó hình thức của hợp đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực.

Vô hiệu” theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu quả”. Như vậy, có thể suy ra rằng hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ như cam kết nhưng khi xác định là hợp đồng vô hiệu thì mọi cam kết đã, đang thực hiện thì đều không phải là các quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ. Vậy hợp đồng vô hiệu là khi xác lập các bên đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn đến hậu quả pháp lý là không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nào.

So sánh với hợp đồng mất hiệu lực: Để hiểu rõ hơn về cần phải có sự phân biệt giữa hợp đồng vô hiệu hợp đồng dân sự mất hiệu lực.Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết. Còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng có hiệu lực ở thời điểm ký kết nhưng hợp đồng bị mất hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu lực của hợp đồng dân sự có thể do một bên vi phạm, dẫn đến bên vi phạm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc các bên tự thoả thuận với nhau chấm dứt hiệu lực của hợp đồng hoặc do trở ngại khách quan nào khác. Ví dụ: 2 bên ký kết một hợp đồng mua bán gỗ, thời điểm này Nhà nước không cấm mua bán mặt hàng này. Nhưng khi hai bên đang thực hiện hợp đồng thì Nhà nước lại có quyết định cấm khai thác và buôn bán loại gỗ này dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được và bị mất hiệu lực.

Trên cơ sở quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, các yếu tố vô hiệu hợp đồng trong kinh doanh gồm:

2. Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội

Trong xã hội truyền thống và trong thời kì thực hiện nền kinh tế kê hoạch hóa tập trung lợi ích của tập thể của cộng đồng được đề cao nhiều khi đến tuyệt đối hóa. Điều đó dẫn tới sự đối lập có tính tách rời giữa đạo đức và lợi ích cá nhân. Định hướng và sự lựa chọn hành vi cá nhân được đặt trước hai sự lựa chọn: hoặc là lợi ích hoặc là đạo đức. Nói cách khác rất nhiều trường hợp khi con người vươn tới giá trị đạo đức cao cả thì họ buộc phải từ bỏ lợi ích cá nhân. Sự tách rời giữa đạo đức và lợi ích khiến cho hoạt động của đạo đức nhân cách bị hạn chế. Con người hướng vào việc suy nghĩ đạo đức hơn là thực hiện hành vi đạo đức, chính điều này khiến cho nhân cách nói chung, đạo đức nói riêng không phát triển toàn diện được. Do đó con người đã vô tình vì lợi ích bản thân vi phạm điều cấm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội.

Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đảng và nhà nước thống nhất quản lý, đề ra phương hướng cho những chính sách chiến lược của đất nước. Nhà nước quản lý xã hội bởi các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành văn bản pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng vùng miền, từng thời kì, sao cho phù hợp với mong muốn của dân, và đạt được mục đích quản lý của nhà nước khi đi vào thực tiễn.

Đất nước ta có 54 dân tộc khác nhau nằm rải rác khắp mọi miền đất nước, nhưng nét văn hóa, truyền thống từ lâu đời đã có, là giá trị không ai có thể phủ nhận, điều đó thông qua câu tục ngữ, ca dao được đưa vào chương trình giảng dạy trong hệ thống giáo dục nước ta như  “uống ước nhớ nguốn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “thương người như thể thương thân”…nhà làm luật đã để các chủ thể giao dịch theo nguyên tắc tự do ý chí, tự do thỏa thuận, nhưng không phải là không có giới hạn vì lợi ích cộng đồng, vì truyền thống tốt đẹp bao nhiêu năm qua của dân tộc Việt Nam ta.

Do vậy, những giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội đều vô hiệu. theo quy định tại Điều 128 BLDS thì:

Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Khi xem xét đến những ảnh hưởng của sự bất hợp pháp của những hợp đồng kí kết trong trường hợp này, cần phải tính đến các yếu tố sau:

Thứ nhất: biểu hiện cụ thể của sự bất hợp pháp

Thứ hai: các bên có biết đến sự bất hợp pháp không?

Thứ ba: phần nội dung bất hợp pháp có độc lập với các điều khoản mang nội dung còn lại không.

Thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp cho thấy khái niệm này rất rộng và được hiểu là bất cứ nội dung nào của hợp đồng trái với quy định của pháp luật cũng như các quy định hướng dẫn đều bị coi là vi phạm điều cấm của pháp luật.

3. Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo

 Hợp đồng giả tạo là hợp đồng được xác lập nhằm che dấu việc thực hiện một hợp đồng khác mà các bên thực sự mong muốn thực hiện. Nói cách khác hợp đồng giả tạo là hợp đồng mang tính hình thức, các nội dung được thiết lập không phải bởi ý chí đích thực của các. Trên thực tế các bên không có ý định tạo lập quyền, nghĩa vụ pháp lý qua hợp đồng này. Thông thường các hợp đồng này được thiết lập để trốn tránh nghĩa cụ đối với xã hội như nghĩa vụ nộp thuế hoặc che dấu hành vi bất hợp pháp.

Trong hoạt động của các cơ quan, doanh nghiệp, quyền sở hữu tài sản thuộc về nhà nước hoặc thuộc về các nhà đầu tư hay những cổ đông góp vốn. Những người đại diện cho cơ quan, đơn vị trong hoạt động đầu tư, kinh doanh là những người tham gia giao kết hợp đồng nên họ quan tâm đầy đủ và trước hết là lợi ích của đơn vị mình, tìm kiếm lợi ích tối đa cho đơn vị mình. Nhưng do không phải là chủ sở hữu đích thực, người trực tiếp tiến hành các hoạt động này có thể không có lợi ích kinh tế cụ thể từ những giao dịch mà mình tiến hành hoặc hưởng một phần lợi ích, nhiều khi lợi ích thu được quá nhỏ so với điều kiện cho phép họ có thể tìm kiếm những cơ hội, thông đồng với đối tác để mang lại lợi ích riêng cho cá nhân. Chính những điều đó là cơ hội cho những hợp đồng giả tạo được hình thành.

Tuy nhiên, sự thể hiện ý chí giả tạo nào cũng đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng, chỉ có những giao dịch mà ở đó ý chí giả tạo tồn tại ở cả hai bên giao kết trước khi kí kết hợp đồng mới đưa đến hợp đồng vô hiệu.

Có hai trường hợp:

Thứ nhất, giả tạo nhằm cố ý che giấu một giao dịch thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này (Điều 129 BLDS2005). Ví dụ như để lách quy định trần lãi suất cho vay, các ngân hàng lập hợp đồng tư vấn tài chính với doanh nghiệp để thu thêm vài điểm phần trăm lãi suất/năm, thực chất đây là giao dịch để che giấu giao dịch vay nợ. Tương tự như vậy là hợp đồng hợp tác đầu tư mà các công ty chứng khoán đã ký với nhà đầu tư trước khi giao dịch ký quỹ được pháp luật chính thức thừa nhận. Thực chất, công ty chứng khoán và nhà đầu tư không hợp tác đầu tư gì hết, đó chỉ là hợp đồng giả tạo để che giấu hoạt động tín dụng, vốn là hoạt động mà công ty chứng khoán không được phép thực hiện.

Thứ hai, trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu, ví dụ như giá ghi trong hợp đồng là 30 triệu trong khi giá thực tế hai bên giao dịch là 100 triệu, cách như vậy với mụch đích trốn thuế. Hợp đồng giả tạo này sẽ bị tuyên vô hiệu do trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế cho cơ quan Nhà nước.

4. Hợp đồng vô hiệu do lừa dối, đe dọa

Theo cách nói thông thường, “lừa dối” là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận để làm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo. Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối là một xảo thuật dùng để lừa gạt người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe xảo trá dùng để khiến người ta giao kết hợp đồng đều là lừa dối. Cũng có cách hiểu: “Lừa dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Nếu không có các thủ đoạn ấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng”. Dù cách sử dụng ngôn từ có khác nhau song nội dung của các khái niệm trên là không khác nhau. Đó là, không phải bất cứ sự nói dối nào cũng đều bị coi là lừa dối và việc xác định có tồn tại hay không sự lừa dối trong giao kết hợp đồng phải có hai điều kiện:

Một là, một bên phải sử dụng thủ đoạn để lừa người khác.

Hai là, người kia phải nghe theo, làm theo một việc nào đó (giao kết hợp đồng).

Thuật ngữ pháp lí “lừa dối” được hình thành từ thời La Mã. Cổ luật La Mã lúc đầu đã coi lừa dối như một tội phạm hình sự, theo đó những kẻ lừa dối sẽ bị trừng phạt đối với sự lừa dối mang tính chất quan trọng. Dần dần lừa dối đã được sử dụng trong lĩnh vực dân sự và xem nó như một trong các yếu tố có thể làm cho hợp đồng vô hiệu hay nói cách khác khi có lừa dối, sự thỏa thuận trở thành khiếm khuyết và bên bị lừa dối có quyền yêu cầu vô hiệu hợp đồng.

Tuy nhiên, trên thực tế làm thế nào để xác định có sự lừa dối là vấn đề rất phức tạp. Một sự khẳng định của người bán hàng về thực trạng mà anh ta không biết có phải là sự lừa dối không? Năng lực của người kí kết hợp đồng có ý nghĩa gì không trong việc xác định có hay không có sự lừa dối?

Lừa dối chỉ được coi là yếu tố dẫn đến vô hiệu hợp đồng khi một bên cố ý làm cho bên kia phải giao kết hợp đồng không theo ý muốn thực. Lừa dối và nhầm lẫn đều là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên trong giao kết hợp đồng và đều giống nhau ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc trình bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Song sự lừa dối khác với nhầm lẫn ở chỗ: Sự nhầm lẫn vốn do người kí kết hợp đồng tự mình hiểu sai còn sự lừa dối là sự hiểu sai do đối phương gây ra. Sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất và mục đích của việc trình bày gian lận của một bên. Nhầm lẫn hay lừa dối đều đưa đến hệ quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thỏa thuận không thể hiện đúng ý chí thật của các bên. Về nguyên tắc, hành vi lừa dối phải do chính một bên giao kết hợp đồng thực hiện. Tuy nhiên, dù một người kí kết hợp đồng không trực tiếp thực hiện hành vi gian trá nhưng đã tham gia hoặc đồng lõa với hành vi gian trá đó thì hành vi này cũng được coi là do chính người kí hợp đồng thực hiện. Đối với người thứ ba ngay tình thì sự ảnh hưởng của hậu quả pháp lí không được tính đến

Pháp luật của một số nước, trong một số trường hợp coi sự kiện không nói ra điều mà người kí có trách nhiệm phải nói khi kí hợp đồng cũng được coi là hành vi gian trá và trong một số trường hợp pháp luật cũng thừa nhận việc khai gian hay im lặng trong trường hợp xét một cách hợp lý phải thông tin cho người cùng giao kết biết là lừa dối. Khi đưa ra nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Unidroit đã ghi nhận nguyên tắc: “Một bên trong hợp đồng được phép vô hiệu hợp đồng, nếu bên đó giao kết hợp đồng do bị phía bên kia lừa dối về sự việc, kể cả trong ngôn ngữ hoặc hành vi, hoặc do bên kia (bên lừa dối) không cung cấp thông tin về các yếu tố, mà theo những tiêu chuẩn thông thường về công bằng và hợp lí trong thương mại họ phải đựoc thông báo”.

Như vậy, pháp luật nhiều nước cũng như nguyên tắc thương mại quốc tế không chỉ giới hạn sự biểu hiện của lừa dối ở hành vi, lời nói mà thừa nhận cả trường hợp một bên không cung cấp thông tin hoặc im lặng khi xét một cách hợp lí là họ phải có nghĩa vụ thông báo. Đây là điểm mà pháp luật của Việt Nam còn bỏ ngỏ. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ coi những hành vi cố ý của một bên mà không thừâ nhận sự im lặng hoặc không thông tin khi có nghiã vụ thông tin đến người cùng giao kết hợp đồng là lừa dối. Chính cách tiếp cận như trên của pháp luật đã không giải quyết được một trong các vấn đề nảy sinh của thực tiễn thực hiện các hợp đồng mua bảo hiểm ở Việt Nam trong thời gian gần đây là làm thế nào để bảo vệ người mua bảo hiểm trước sự thiếu hiểu biết của người mua bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm vô cùng phức tạp. Trong trường hợp này nếu không có sự giải thích, hướng dẫn của bên bảo hiểm thì người mua không thể hiểu một cách đầy đủ trước khi kí kết hợp đồng. Bên cạnh đó pháp luật cũng không thừa nhận sự lừa dối gián tiếp thông qua người thứ ba là yếu tố làm cho hợp đồng có thể vô hiệu.

Trong giai đoạn hiện nay các hợp đồng mẫu đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản. Phần lớn các hợp đồng trong lĩnh vực vận tải, dịch vụ đại chúng như cung ứng điện nước… đều được kí kết trên cơ sở các hợp đồng mẫu. Những hợp đồng này đã hình thành nên mối quan hệ không bình đẳng.

Vì vậy, đòi hỏi pháp luật phải có các qui định mang tính ràng buộc điều chỉnh chúng. Đòi hỏi đối với các hợp đồng này phải chặt chẽ hơn là phù hợp. Cần xác định điều kiện đưa đến sự lừa dối đối với các hợp đồng mẫu (hợp đồng được một bên mà thường là bên cung cấp dịch vụ soạn thảo trước theo mẫu và sẽ được hình thành khi một bên kí vào hợp đồng) trong trường hợp bên đưa ra hợp đồng mẫu mà không giải thích rõ làm cho bên kia vì không biết rõ hoặc không để ý mà kí hợp đồng cũng là lừa dối

Như vậy, để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết hợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây:

Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên,

Hai là, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó.

Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do một bên đưa ra mà giao kết hợp đồng.

Bốn là, phải có thiệt hại xảy ra.

Đe dọa trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.

Sự tiềm ẩn của hiểm họa: Nếu người đối tác đã dùng đến vũ lực hoặc đã thực hiện các biện pháp nhằm gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe… hoặc đưa nạn nhân vào tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mình, để nạn nhân chấp nhận giao kết hợp đồng thì hợp đồng vô hiệu không phải vì sự ưng thuận không hoàn hảo mà do hoàn tòa không có sự ưng thuận. Đe dọa là hành vi có tác dụng dẫn dắt ý chí của một người bị đe dọa đi theo ý chí của người đe dọa, mà người bị đe dọa không dám, không thể cưỡng lại. Nói rõ hơn dưới góc nhìn của người bị đe dọa, thì sự đe dọa hình thành từ hai yếu tố: yếu tố khách quan – mối nguy hiểm bủa vây, yếu tố chủ quan – nỗi sợ. Chính dưới sự đe dọa đó mà ý chí được bày tỏ của người bị đe dọa không thể phản ánh ý chí trung thực, nội tâm của người này.

Tính chất của sự đe dọa: sự đe dọa phải có tác dụng đối với quyết định ưng thuận của người bị đe dọa, có nghĩa là người bị đe dọa chấp nhận giao kết vì bị đe dọa.

Để xác định một hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa trong giao kết phải lưu ý:

Một là, phải có hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà giao kết hợp đồng; Hai là, bên bị đe dọa giao kết nhằm tránh gây thiệt hại về mọi mặt cho chính họ hoặc cho những người thân thích của họ. Nếu không thỏa mãn hai yêu cầu trên thì không phải là đe dọa được.

Như vậy, không phải bất kì sự đe dọa nào cũng đủ uy lực để buộc bên bị đe dọa giao kết hợp đồng. Pháp luật chỉ bảo vệ các bên trong trường hợp được giới hạn ở yêu cầu thứ hai đó là bên bị đe dọa phải nhằm mục đích tránh những thiệt hại cho mình hoặc cho người thân. Yêu cầu thứ hai này nhằm hạn chế việc các bên đưa ra lí do bị đe dọa trong giao kết hợp đồng để vô hiệu hợp đồng và hướng tới bảo vệ co bên bị đe dọa không bị thiệt hại.

Bộ luật dân sự 2005 cũng đã khắc phục được tình trạng người thứ ba đe dọa đối với một bên trong hợp đồng, khi đã đầy đủ yếu tố trên thì hợp đồng cũng bị vô hiệu trong trường hợp này.

5. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

Theo quy định của pháp luật của tất cả các nước, nhầm lẫn có thể được coi là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tuy nhiên thế nào là nhầm lẫn được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau. Pháp luật của các nước hầu  như không ra khái  niệm nhầm lẫn, còn trong  khoa học pháp  lý, về vấn đề  này có nhiều cách nhìn khác nhau. Có quan đỉểm cho rằng, nhầm lẫn là những trường  hợp  hợp đồng  được ký kết nhưng ý chí của một hoặc của các bên được hình thành không đúng vì nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do các bên chưa thoả thuận hết mọi điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không thể hiện sự cẩn thận cần phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc hành vi của người thứ ba. Ý kiến khác cho rằng, nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký kết không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết quả mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng. Có thể nói, nhầm lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của họ trong giai đoạn thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối. Việc coi nhầm lẫn là căn cứ tuyên bố hợp đồng vô hiệu gặp phải hai vấn đề phức tạp trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Một mặt, trên xuất phát từ thuyết ý chí, nhầm lẫn được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể và vì vậy nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu. Mặt khác, nếu trong mọi trường hợp khi hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ tạo ra sự không ổn định, mất trật tự trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh doanh thương mại- điều mà không ai muốn. Chính vì vậy, nên pháp luật cũng như Toà án cẫn phải thận trọng trong việc xem xét hợp đồng vô hiệu. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ trên cần phải phân biệt hai loại  nhầm  lẫn:  nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý, tức là không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý-là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Như vậy không phải mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm lẫn. Điều này là nhất quán trong mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, trong  thực  tiễn  việc  phân  biệt  hai  loại  nhầm  lẫn  nói  trên  là  việc  không  đơn giản, trong khi đó hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Có thể nói rằng, nhầm lẫn, nhìn từ góc độ là điều kiện để yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là một trong những vấn đề phức tạp nhất của pháp luật hợp đồng và gây nhiều khó khăn cho người học khi nghiên cứu vấn đề này.

Phạm vi của nhầm lẫn: Điều 131 BLDS năm 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này”. Như vậy theo pháp luật của Việt Nam hiện hành, nhầm lẫn chỉ có thể liên quan đến nội dung của hợp đồng mà không quy định nhầm lẫn về chủ thể. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nội dung, tuy nhiên có thể hiểu rằng, trong nội dung của hợp đồng có rất nhiều vấn đề, ví dụ, đối tượng của hợp đồng, tính chất của hàng hoá, công việc… Cách tiếp cận trên trong pháp luật của Việt Nam, có thể nói là tương tự với pháp luật của nhiều nước. Theo Điều 178 BLDS Liên Bang Nga, hợp đồng được ký kết do bị nhầm lẫn nghiêm trọng có thể bị toà án tuyên bố vô hiệu khi có sự yêu cầu của bên bị nhầm lẫn. Nhầm lẫn nghiêm trọng là nhầm lẫn liên quan đến: bản chất của hợp đồng hoặc tương tự hay liên quan đến những đặc tính của đối tượng làm giảm khả năng đáng kể việc sử dụng chúng theo mục đích. Nhầm lẫn liên quan đến động cơ của giao dịch không được coi là có ý nghĩa pháp lý quan trọng. Khác với pháp luật của Việt Nam và Liên Bang Nga, pháp luật của nhiều nước có quy định nhầm lẫn về chủ thể, tuy nhiên chỉ trong một số trường hợp hạn chế. Điều 1110 BLDS Pháp quy định “Sự nhầm lẫn chỉ là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi đó là sự nhầm lẫn về bản chất của vật hoặc công việc là đối tượng của hợp đồng. Sự nhầm lẫn về chủ thể giao kết không thể là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu, trừ trường hợp việc xem xét nhân thân người đó là căn cứ chính dẫn đến việc giao kết hợp đồng”.

Không quy định nhầm lẫn về chủ thể có phải là khiếm khuyết của pháp luật hợp đồng Việt Nam hay không? Và việc thiếu vắng quy định của pháp luật trong trường hợp này gây ra những hậu quả pháp lý như thế nào? Có tác giả cho rằng, pháp luật quy định như vậy là chưa  đủ, bởi lẽ trong thực tế, hoàn toàn có thể xảy ra  nhầm lẫn về chủ  thể tham gia giao kết hợp đồng và mặc dù pháp luật chưa quy định nhưng thực tiễn xét xử đã thừa nhận nhầm lẫn về chủ thể. Ví dụ đó là ông Huy và bà Mai có lập hợp đồng thỏa thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường với ngành nghề kinh doanh gồm: mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẩm mỹ, y ngoại tổng quát, đào tạo nghề. Hai tháng sau khi thành lập giữa các chủ thể phát sinh tranh chấp. Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án đã tuyên hợp đồng hợp tác giữa ông Huy và bà Mai là vô hiệu do nhầm lẫn (Tòa án đã viện dẫn Điều 131, BLDS năm 2005). Tòa án cho rằng sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức của bà Mai bởi bà đã nhầm “y ngoại tổng quát”“phẫu thuật tạo hình thẩm  mỹ”. Với  cách  quy  định  của  pháp  luật  Việt Nam hiện hành Toà án đã thiếu chính xác trong việc lựa chọn quy định của pháp luật để áp dụng, bởi lẽ: thứ nhất, pháp luật Việt Nam không quy định nhầm lẫn về chủ thể; thứ hai, trong trường hợp này toà án hoàn toàn có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu do: i) vi phạm điều kiện về chủ thể, ông Huy là bác sĩ thì ông biết và buộc phải biết ông ta không có chuyên môn phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, hoặc; ii) vi phạm điều cấm của pháp luật vì đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Mặt khác việc áp dụng quy định về nhầm lẫn sẽ dẫn đến rủi ro pháp lý trong trường hợp Toà án thụ lý vụ án khi đã quá thời hạn 2 năm kể từ ngày ký hợp đồng theo Khoản Điều 136. Trong vụ việc nói trên sẽ hợp lý và thuyết phục hơn nếu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.

BLDS Việt Nam cần phải bổ sung quy định nhầm lẫn về chủ thể trong một số trường hợp khi yếu tố nhân thân là động lực chủ yếu để bên nhầm lẫn ký kết hợp đồng.

Tính chất của nhầm lẫn phải nghiêm trọng, Điều 131 BLDS 2005 chỉ quy định nhầm lẫn sự nhầm lẫn liên quan đến nội dung của giao dịch mà không quy định mức độ, tính chất của nhầm lẫn. Thật ra pháp luật của nhiều nước không quy định những tiêu chí để xác định một sự nhầm lẫn nào đó là nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, mà việc xác  định này tuỳ thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể cũng như khả năng nhận biết của chủ thể về đối tượng nhầm lẫn. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, sự thừa nhận án lệ của pháp luật nhiều nước có thể giải quyết được vấn đề đặt ra. Nhầm lẫn chỉ có ý nghĩa nếu nó là động lực chủ yếu để bên bị nhầm lẫn ký kết hợp đồng. Với tư cách là động lực chủ yếu nhầm lẫn chỉ được xem xét nếu nó là cơ sở duy nhất để bên bị nhầm lẫn ký hợp đồng. Nếu còn có khả năng ký hợp đồng với những điều kiện khác thì không thể coi nhầm lẫn là động lực chủ yếu. Thực tiễn xét xử của nhiều nước không coi hợp đồng vô hiệu nếu nhầm lẫn là do động cơ thông thường. Nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý chỉ trong trường hợp, nếu sự nhầm lẫn đó có liên quan đến đặc tính, vì nó mà các bên đạt được sự thoả thuận một cách trực tiếp. Có thể nhận thấy, việc pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng nhầm lẫn đến mức nào thì có ý nghĩa pháp lý trong xác định hiệu lực của hợp  đồng cộng với  việc pháp luật không thừa nhận án lệ sẽ làm cho Toà án gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử. Bởi lẽ khó có tìêu chí rõ ràng đánh giá mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn. Trong vụ kiện giữa Công ty Việt Á Châu và Công ty Connell Bros theo  hợp đồng  Công  ty  Connell  Bros bán cho Công ty Việt Á Châu sản phẩm hoá chất Myflame 84527E. Giữa các bên phát sinh  tranh  chấp  liên  quan  đến  chất  lượng  của  Myflame  84527E.  Toà  án  tuyên  bố  hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn vì lý do sản phẩm Myflame 84527E được dùng cho nguyên liệu vải Polyester và Oxphor nhưng lại ghi trong hợp đồng và trong hóa đơn nhận hàng là chất Myflame 84527E dùng cho nguyên liệu PO (da thuộc). Có ý kiến cho rằng, mặc dù cả hai bên có sự nhầm lẫn PO và PU, tuy nhiên sự nhầm lẫn này không không có ý nghĩa pháp lý bởi không liên quan đến bản chất, đặc tính của hàng hoá là đối tượng của hợp đồng và cả hai bên đều biết nguyên liệu PO không tồn tại trên thị trường 30 năm và không có thực. Việc nhầm lẫn này không phải là lý do chủ yếu để các bên ký kết hợp đồng. Mặc dù các bên đã thừa  nhận  có  sự  nhầm  lẫn về tên gọi PO và PU nhưng vốn dĩ ở đây đã có sự không thống  nhất giữa ý chí  chung của các bên với ngôn từ được sử dụng trong hợp đồng. Chính vì vậy nên có thể nói Quyết định của Toà án vi phạm Điều 409 BLDS 2005 về giải thích hợp đồng, theo đó trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ của hợp đồng thì cần phải dựa vào chí chí chung của các bên.

Một vấn đề nữa cần phải được xem xét một cách thận trọng dưới góc độ pháp lý khi xác định nhầm lẫn là có cần thiết phải xác định lỗi của một bên là nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của bên kia hay không. Vấn  đề  này  được  xem  xét  không  giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành nhầm lẫn phải do hành vi lỗi vô ý của một bên gây ra. Điều đó có thể hiểu rằng, nếu không có lỗi của một bên thì không có sự nhầm lẫn hay nhầm lẫn (nếu có) sẽ không có ý nghĩa pháp lý và không thể là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Cũng có thể hiểu rằng, các nhà làm luật Việt Nam không loại trừ nhầm lẫn không phải do lỗi bên kia, tuy nhiên họ chỉ cho rằng, nhầm lẫn do lỗi của bên kia mới có thể có ý nghĩa pháp lý và có thể được coi là điều kiện để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Khác với pháp luật của Việt Nam, pháp luật của hầu hết các nước không xem xét lỗi của một bên là điều kiện của nhầm lẫn mà chỉ quan tâm đến mức độ nhận thức của chủ thể bị coi là có sự nhầm lẫn tại thời điểm ký kết hợp đồng. Ví dụ, Điều 1110 BLDS Pháp, Điều 178 BLDS Liên Bang Nga. Tuy nhiên khi xem xét kỹ pháp luật và án lệ cũng thực tiễn giải quyết tranh chấp của các nước có thể nhận thấy rằng, một cách gián tiếp quy định một bên bị nhầm lẫn là do hành vi vô ý của bên kia. Trong trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do bị nhầm lẫn, nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được rằng, nhầm lẫn xảy ra là do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bồi thường những thiệt hại thực tế. Nếu bên yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn không chứng minh được bên kia có lỗi dẫn đến sự nhầm lẫn thì phải bồi thường thiệt hại thực tế cho bên kia, ngay cả khi sự nhầm lẫn xảy ra do những tình huống không phụ thuộc vào bên bị nhầm lẫn. Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT (PICC) và Bộ nguyên tắc luật hợp đồng của châu Âu cũng không coi lỗi là điều kiện của nhầm lẫn. Điều 3.5 PICC  quy  định  các  điều  kiện  của  nhầm  lẫn –  căn cứ yêu cầu hợp đồng vô hiệu nếu sự nhầm lẫn là lớn đến  mức mà một người bình thường, trong hoàn cảnh tương tự sẽ chỉ giao kết hợp đồng với những điều khoản khác hoặc sẽ không khi nào giao kết hợp đồng đó  nếu  biết  sự  thực  và:  i)  phía  bên  kia  cũng  có  sự  nhầm  lẫn  tương  tự,  có  nghĩa  là  sẽ không ký hợp đồng nếu biết rõ sự thực, ở đây muốn nói là cả hai cùng nhầm lẫn. Như vậy trong trường hợp này nhầm lẫn không là hậu quả của hành vi vô ý của bên kia; ii) phía bên kia có hành vi (vô ý) gây ra nhầm lẫn, trường hợp  này có thể nói là giống với quy định của pháp luật Việt Nam, việc gây ra nhầm lẫn ở đây có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, trực tiếp hay ngầm hiểu; iii) bên kia biết hay không thể không biết về sự nhầm lẫn nhưng vẫn để đối tác tiếp tục nhầm lẫn trái với những tiêu chuẩn về thiện chí và trung thực trong thương mại thông thường. Trường hợp này có thể hiểu rằng, một bên biết bên kia nhầm lẫn nhưng đã không hành động một cách trung thực thì bên bị nhầm lẫn có thể yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu. Hợp đồng chỉ có thể bị tuyên bố vô hiệu khi có thêm điều kiện đủ, đó là bên không bị nhầm lẫn đã không hành động một cách hợp lý vào thời điểm hợp đồng vô hiệu bằng cách dựa vào các điều khoản của hợp đồng. Điều này có nghĩa mặc dù biết và buộc phải biết hợp đồng vô hiệu nhưng vẫn thực hiện hợp đồng. Điều 4:103 Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu cho phép  một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu (nếu các điều kiện khác hội đủ) khi: (i) nhầm lẫn được gây ra do thông tin của bên kia cung cấp, (ii) bên kia biết hoặc phải biết có nhầm lẫn nhưng đã để cho nạn nhân nhầm lẫn trái với nguyên tắc thiện chí, (iii) hoặc bên kia cũng có cùng nhầm lẫn. Khoản  2 Điều  131 BLDS 2005 quy định,  trong trường hợp  một bên do lỗi cố  ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này. Có lẽ vì quy định này nằm trong Điều 131 BLDS dưới tên gọi “Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn ” nên có tác giả cho rằng, BLDS năm 2005 dự liệu hai trường hợp nhầm lẫn của một bên: nhầm lẫn do lỗi vô ý hay cố ý của bên kia và thực tế cho thấy hai loại nhầm lẫn này hoàn toàn có thể tồn tại.

BLDS không coi nhầm lẫn là do lỗi cố ý của một bên mà bằng khoản 2 chỉ nhấn mạnh rằng, nếu một bên có lỗi cố ý làm cho bên kia hiểu sai về nội dung của giao dịch thì bị coi là lừa dối. Thật vậy, khi một bên có hành vi cố ý làm cho bên kia hiểu sai về nội dung cả hợp đồng tức là trong hành vi đó bao gồm các thủ đoạn gian dối. Một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai bởi lẽ biết rằng, nếu không như vậy thì bên kia hiểu đúng về nội dung của hợp đồng thì sẽ không bao giờ ký.

Cùng nhầm lẫn: Pháp luật Việt Nam có xem xét trường hợp khi cả hai bên cùng nhầm lẫn hay không? Đây là vấn đề đã có tác giả đặt ra trong khoa học pháp lý Việt Nam. Không riêng gì pháp luật Việt Nam mà pháp luật của nhiều nước không đề cập đến vẫn đề này một cách trực tiếp, ví dụ, Bộ luật Dân sự của Đức, Pháp, Liên bang Nga và chỉ có pháp luật của một số nước và Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế và Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu lại quy định vấn đề này khá cụ thể. Việc quy định điều đó hay không ít có ý nghĩa bởi lẽ: mặc dù không quy định trực tiếp nhưng điều đó không có nghĩa pháp luật các nước không có sự điều chỉnh loại nhầm lẫn này. Rõ ràng, với cách quy định tại Điều 131 BLDS nhiều người có thể hiểu rằng, theo pháp luật Việt Nam chỉ có một bên trong giao dịch bị nhầm lẫn. Với cách quy định tại Điều 131 BLDS cũng có thể hiểu rằng, hoàn toàn có thể có truờng hợp cả hai bên cùng nhầm lẫn. Đó là những trường hợp cả hai bên đều có hành vi vô ý và làm cho bên kia hiểu nhầm. Và trong những trường hợp này cả hai bên đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Như vậy, Nhầm lẫn với tư cách là điều kiện để tuyên bố hợp đồng vô hiệu là một trong những nội dung phức tạp của pháp luật hợp đồng, tuy nhiên chưa có sự quan tâm đáng kể trong pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam cần phải xây dựng, bổ sung một cách cụ thể hơn các quy định về điều kiện, tính chất và đối tượng của nhầm lẫn; ii) Cần phải nâng cao vai trò và năng lực giải thích pháp luật của thẩm phán khi áp dụng pháp luật, bởi lẽ, thứ nhất, pháp luật dù hoàn thiện đến mấy cũng khó có thể cụ thể đến mức chi tiết; thứ hai, thực tiễn xét xử ở Việt Nam cho thấy rằng, có rất nhiều bản án Toà án đã áp dụng pháp luật một cách máy móc, thiếu sự giải thích.

6. Không tuân thủ quy định về hình thức

Hình thức hợp đồng được hiểu không chỉ là hình thức thể hiện nội dung của hợp đồng mà còn là thủ tục mà pháp luật quy định ắt buộc các bên giao kết hợp đồngphair tuân thủ khi giao kết một số loại hợp đồng như công chứng, chứng thưc. Một trong các vấn đề mà các nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà lập pháp quan tâm đó là hình thức hợp đồng có ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng như thế nào, đó có phải là điều kiện xác định hiệu lực của hợp đồng hay không. Một hợp đồng được giao kết không tuân thủ hình thức luật định có thể bị vô hiệu không. Với nhiều nước trên thế giới, trong những trường hợp pháp luật đòi hỏi phải thê hiện bằng hình thức nhất định, nếu vi phạm hình thức luật định thì hợp đồng đã kí sẽ vô hiệu. Vì hình thức hợp đồng không chỉ là hình thức ghi nhân sự thế hiện ý chí của các bên mà còn là sự tuân thủ các thủ tục bắt buộc của pháp luật.

Ở Đức sự vi phạm về hình thức là vi phạm lợi ích công cộng nên hợp đồng vô hiệu tuyệt đối, pháp luật Đức đưa ra những đòi hỏi nghiêm ngặt về hình thức nhằm bảo vệ những người không có kinh nghiệm đối mặt với những tình huống bất ngờ cũng như để hạn chế phương pháp chứng cứ. Tuy nhiên, nếu quy định hợp đồng phải được thiết lập bởi những hình thức nhất định là vô hiệu tuyệt đối sẽ tạo nên những khoảng cách nhất định giữa sự thống nhất ý chí thực và hiệu lực hợp đồng.

Còn ở Pháp do không coi hình thức hợp đồng là điều điều kiện xác định hiệu lực của hợp đồng  mà ở Pháp có sự phân biệt giữa một giao dịch không có hiệu lực với một giao dịch do không tuân thủ theo một hình thức nhất định mà trên thực tế dù hợp đồng có hiệu lực song lại không thể chứng minh được hoặc không đủ chứng cứ để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng khi có tranh chấp. Tuy nhiên sự phân biệt giữa một giao dịch không có hiệu lực cới một giao dịch có hiệu lực nhưng không thể chứng minh trên thực tế là không lớn bới nếu giao dịch có hiệu lực nhưng không thể chứng minh được một cách dễ dàng thì rất khó khăn để xác đính sự tồn tại của nó. Trong trường hợp này, hợp đồng chỉ có thể được xác nhận khi có sự thừa nhận của các bên chủ thể mà thôi. Ở Pháp các quy định đòi hỏi hình thức nhằm hướng tới vấn đề chứng cứ hơn là hiệu lực của hợp đồng. Không tuân thủ hình thức không làm mất hiệu lực của giao dịch mà chỉ làm cho việc chứng minh nó khó khăn hơn, bởi trong những trường hợp như vậy, các bên không đưa ra nhân chứng để chứng minh. Đặc biệt trong hoạt động thương mại người ta không áp dụng quy định hợp đồng phải được lập thành văn bản và cho phép có thể dùng mọi bằng chứng để chứng minh sự hiện diện của hợp đồng xuất phát từ đặc điểm các quan hệ thương mại là nhanh chóng và an toàn. Trong những trường hợp này pháp luật cho phép các bên giao kết hợp đồng có thể hợp thức bằng văn bản sau khi hợp đồng được kí kết. Tuy có những cách khác nhau trong quan điểm về ảnh hưởng của hình thức đến hiệu lực của hợp đồng, song tất cả các hệ thống đều nhận sự cần thiết phải bảo vệ đối với giao dịch bảo đảm. Như vậy,  không một hệ thống pháp luật nào có thể miễn trừ hoàn toàn các đòi hỏi về hình thức. Đối với các giao dịch thương mại, khuynh hướng của các nước thuộc hệ thống luật Châu Âu là hướng tới sự không hình thức, khuynh hướng này được thể hiện rất rõ trong nguyên tắc hợp đồng  thương mại quốc tế, theo đó không có sự bắt buộc về hợp đồng ,

 Theo pháp luật việt nam, Điều 124 BLDS 2005 có quy định hình thức của các giao dịch “giao dịch dân sự được biểu hiện bằng lời nói, văn bản hay hành vi cụ thể” và so với BLDS 1995 đã cụ thể hóa các phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch văn bản. Khoản 1 điều 122 BLDS 2005 đã nêu điều kiện để một giao dịch có hiệu lực không bao gồm hình thức của giao dịch, khi nào có quy định và luật yêu cầu thì hợp đồng mới phải tuân thủ về hình thức.Vậy nên, có thể nói hình thức của giao dịch theo quy định của luật hiện hành là điều kiện cần để một giao dịch được tiến hành thuận lợi dưới sự bảo hộ của pháp luật, điều này khác với quy định của  Bộ luật dân sự 1995: hình thức là một trong bốn điều kiện bắt buộc có hiệu lực của một giao dịch. Chỉ những giao dịch mà pháp luật quy định phải thể hiện bằng văn bản, phải có nhứng thực, chứng nhận, và phải có đăng kí hoặc phải xin phép thì mới ràng buộc các bên phải tuân theo, nếu các bên không tuân thủ các quy định này đồng thời có yêu cầu thì tòa án xem xét và buộc các bên thực hiện theo quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định. Việc ấn định thời hạn do Tòa án quyết định tùy vào giao dịch cụ thể. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy đinh về hình thức của giao dịch trong thời hạn do Tòa án ấn định thì giao dịch mới đương nhiên vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.

Thực tế ở Việt nam một số loại hợp đồng được pháp luật quy định chặt chẽ và các bên tham gia giao dịch nếu không tuân thủ thì hợp đồng vô hiệu như: hợp đồng mua bán nhà phải được lập văn bản và có công chứng chứng thực, hợp đồng thế chấp phải đăng ký giao dịch đảm bảo… Thực tế, đã có ngân hàng không đăng ký giao dịch đảm bảo, không công chứng hợp đồng thế chấp tài sản, dẫn đến khi khởi kiện để đòi nợ thì bên vay nợ viện dẫn các quy định nêu trên để yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu.

7. Người kí hợp đồng không đúng thẩm quyền

Năng lực chủ thể là yếu tố quyết định hiệu lực của quan hệ pháp luật hợp đồng. năng lực pháp luật của chủ thể hợp đồng được xác định trong các quyết định thành lập, trong điều lệ hoạt động, trong giấy phép kinh doanh và trong các quy định của pháp luật. Năng lực chủ thể sẽ quyết định tư cách chủ thể, khả năng tham gia quan hệ hợp đồng, tầm mức hoạt động, nhu cầu và mức độ đáp ứng của chủ thể khi thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng, tầm mức hoạt động, nhu cầu và mức độ đáp ứng của chủ thể khi thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Vì vậy, năng lực chủ thể cũng sẽ quyết định đến hiệu lực của hợp đồng. Thực tế, hiện nay doanh nghiệp khi ký hợp đồng với các đơn vị như chi nhánh, trung tâm, xí nghiệp…, thấy họ có con dấu, tài khoản, hóa đơn chứng từ riêng là yên tâm, mà không biết rằng, thẩm quyền ký kết phải là người đại diện theo pháp luật và phải là con dấu của pháp nhân. Ngoài ra, còn phải xem ai là đại diện theo pháp luật, vì nhiều Doanh nghiệp đăng ký người đại diện theo pháp luật không phải là Tổng giám đốc, mà là chủ tịch Hội đồng quản trị, chủ tịch Hội đồng thành viên. Gần đây, có một số chứng thư bảo lãnh đã bị ngân hàng từ chối thực hiện trách nhiệm thanh toán, lý do ngân hàng viện dẫn là vì giám đốc chi nhánh ký chứng thư bảo lãnh vượt thẩm quyền.

Trong Doanh nghiệp có hai loại thẩm quyền ký kết và quyết định. Đối với Công ty cổ phần, thẩm quyền quyết định cao nhất thuộc về Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị.Thẩm quyền ký kết thuộc về đại diện theo pháp luật được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với hợp đồng có giá trị trên 50% tổng tài sản có trong Báo cáo tài chính gần nhất, thì phải được Hội đồng quản trị thông qua. Đây là hai quy định về thẩm quyền ký kết mà pháp luật buộc tất cả các bên tham gia giao dịch phải biết. Nếu người ký kết hợp đồng không phải là đại diện theo pháp luật, thì cần phải có ủy quyền. Phạm vi, thời hạn, nội dung ủy quyền là yếu tố quan trọng, bởi rất có thể người được ủy quyền ký kết hợp đồng không được ủy quyền để ký các phụ lục, bổ sung sửa đổi hợp đồng cũng như thanh lý. Nhiều trường hợp các bên giao dịch nhầm lẫn về “ủy quyền không hủy ngang”. Pháp luật cho phép người ủy quyền có quyền rút lại ủy quyền bất cứ lúc nào, chỉ cần báo trước với người được ủy quyền một thời hạn nhất định, do đó không thể có ủy quyền không hủy ngang. Đối với việc ủy quyền lại, Điều 583 Bộ luật Dân sự cho phép ủy quyền lại nếu như người được ủy quyền ban đầu chấp nhận và phạm vi, nội dung không vượt quá ủy quyền ban đầu. Nhưng như thế không có nghĩa là được ủy quyền nhiều lần, mà chỉ được ủy quyền một lần

Phân loại hợp đồng vô hiệu là việc chia hợp đồng vô hiệu thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định và nhằm những mục đích nhất định và qua đó để có sự điều chỉnh pháp lý thích hợp. Việc phân loại hợp đồng cho ta cái nhìn toàn diện về hợp đồng vô hiệu dưới những khía cạnh và phương diện khác nhau để từ đó đưa ra cách thức xử lý thích hợp.

VII. Căn cứ vào tính chất trái pháp luật và mức độ dẫn đến hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh được chia ra làm hai loại

Dựa vào tính chất trái pháp luật:

Hợp đồng vô hiệu tuyêt đối: là những hợp đồng mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là nghiêm trọng, kể cả khi các bên tham gia giao kết hợp đồng không yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng đó vẫn được xác định vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối bao gồm vi phạm điều cấm của pahsp luật, trái đạo đức xã hội; hợp đồng xác lập do giả tạo; khi hình thức của hợp đồng không tuân thủ bắt buộc theo quy định của pháp luật. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu tuyệt đối không bị hạn chế.

Hợp đồng vô hiệu tương đối: là những hợp đồng mà nội dung chỉ xâm hại đến lợi ích các nhân hoặc có sự khiếm khuyết của sự thồng nhất ý chí thì có thể vô hiệu nếu có sự yêu cầu của bên được pháp luật bảo vệ và được tòa án tuyên bố vô hiệu. Trong trường hợp này hợp đồng sẽ vô hiệu kể từ khi hợp đồng được kí kết nếu có yêu cầu của bên được pháp luật bảo vệ và phán quyết của tòa án. Một số loại hợp đồng vô hiệu tương đối: hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn; hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa.. Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu bị hạn chế về thời gian.

Dựa vào mức độ của sự vô hiệu:

Hợp đồng vô hiệu toàn bộ: đó là hợp đồng mà tất cả nội dung của hợp đồng đều vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hoặc một số nội dung của hợp đồng vô hiệu nhưng trực tiếp ảnh hưởng đến các điều khoản còn lại của hợp đồng.

Hợp đồng vô hiệu một phần: đó là hợp đồng chỉ có một số nội dung vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng còn các nội dung khác không vi phạm hoặc có một phần của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng

VIII. Hậu quả pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu

Hậu quả theo cách hiểu thông thường là kết quả không hay xảy ra từ một quá trình , một việc làm trước đó. Ví dụ hậu quả của chiến tranh, hậu quả của việc lạm dụng thuốc, hậu quả từ một việc làm sai trái. Trong các lĩnh vực pháp luật khác nhau thì hậu quả pháp lý cũng được hiểu khác nhau. Ví dụ hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm pháp luật hình sự khác với hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu khác với hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Một hợp đồng trong kinh doanh bị vô hiệu thực chất là hợp đồng không được pháp luật thừa nhận do đã có sự trái pháp luật trong kí kết hợp đồng. Những hệ quả pháp lý này phát sinh có thể do hành vi trái pháp luật của chủ thể khi kí kết hợp đồng hoặc do những yếu tố khác. Tính chất trái pháp luật của hành vi là hành vi đi ngược lại những yêu cầu đòi hỏi của pháp luật. Một hợp đồng được giao kết không phù hợp với những đòi hỏi của pháp luật với nó như nội dung vi phạm điều cấm, thì sẽ vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu không chỉ ảnh hưởng trực tiêp đến các chủ thể tham gia giao dịch mà còn ảnh hưởng xấu trực tiếp đến xã hội

Như vậy, hậu quả pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu có thể được hiểu là những hệ quả pháp lý phát sinh theo quy định của pháp luật trong trường hợp hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu, mà theo đó xác định:

_Tình trạng pháp lý của các bên trong trường hợp này:

_Các chế tài pháp lý có thể được áp dụng

_Phương thức xử lý giữa các bên và từ phía nhà nước

Hậu quả pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu:

Thứ nhất: Khôi phục lại tình trạng ban đầu:

Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập, hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập hay nói cách khác pháp luật  không công nhận và bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng vô hiệu ngay cả khi các bên đã thực hiện xong hợp đồng. Do đó, nếu hợp đồng mới xác lập chưa thực hiện thì các bên không thực hiện, nếu các bên đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vấn đề cần lưu ý ở đây là thời điểm xác lập hợp đồng bởi xác định đúng thời điểm này không chỉ có ý nghĩa trong việc giải quyết chính xác hậu quả của hợp đồng vô hiệu mà còn nhằm xác định pháp luật áp dụng.

 Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì “khôi phục lại tình trạng ban đầu”  thường được đồng nhất với “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, song đây lại là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Tòa án buộc các bên trong hợp đồng vô hiệu phải khôi phục lại tình trạng ban đầu khi hàng hóa được hoàn trả không đúng với hiện trạng tại thời điểm xác lập hợp đồng: hàng hóa đã bị hư hỏng, giảm giá trị; hàng hóa đã được biến đổi làm tăng giá trị.

Trong trường hợp thứ nhất, bên đã làm hư hỏng, giảm giá trị hàng hóa phải sửa chữa, phục hồi, nâng cấp lại hàng hóa, nhưng đối với trường hợp thứ hai, có cần thiết phải khôi phục hàng hóa trở về trạng thái ban đầu khi hàng hóa đó đã được làm tăng giá trị?để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, Tòa án lựa chọn giải pháp theo hướng buộc một bên nhận lại hàng hóa đã được làm tăng giá trị và thanh toán thành tiền tương ứng với phần giá trị hàng hóa tăng thêm cho bên kia.

Quy định “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu” cũng là việc không thể trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện, nên “các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” không hề đơn giản. Trong trường hợp này, nếu áp dụng “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền” thì qui định về việc không công nhận quyền và nghĩa vụ của các bên lại không có ý nghĩa.

Thứ hai, Hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Đây là chế tài có mục đích “khôi phục lại tình trạng ban đầu” của tài sản của các bên như trước khi giao kết hợp đồng. Nhưng việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” chỉ có thể áp dụng khi đối tượng hợp đồng còn nguyên vẹn, chưa có hoặc ít có sự biến đổi đáng kể, như đã nói trên. Trong trường hợp hàng hóa đã được chuyển giao thực tế không thể hoàn trả được thì pháp luật tính đến khả năng hoàn trả số tiền tương đương, dù như vậy là vi phạm qui định về việc không công nhận quyền và nghĩa vụ của các bên khi Tòa án đã tuyên hợp đồng bị vô hiệu. Đồng thời sẽ có thêm các hệ lụy sau:

Trong trường hợp đối tượng hợp đồng là hàng hóa nhưng không còn giữ được tình trạng như ban đầu hay đối tượng hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện mà có căn cứ xác minh là hợp đồng vô hiệu thì không thể áp dụng được việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu”. Đặc biệt là đối với những hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội mà đối tượng hợp đồng là các công việc có liên quan đến giá trị nhân thân của các bên chủ thể. Thực tế xét xử cho thấy, đối với những hợp đồng như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng xây dựng, hợp đồng tư vấn… việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận rất khó thực hiện. Ví dụ, trong hợp đồng vận chuyển, khó có thể xử lý trường hợp đối tượng hợp đồng đã được vận chuyển tới một không gian hay địa điểm khác so với địa điểm xuất phát ban đầu, cũng như không thể bắt các bên trong hợp đồng xây dựng vô hiệu phải phá đi phần công trình đã xây và hoàn trả lại số tiền đã thanh toán.

Thứ ba, Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại

Theo Điều 137 BLDS năm 2005 thì bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Cần lưu ý rằng, hợp đồng vô hiệu có thể chỉ do lỗi một bên mà cũng có thể do lỗi của hai bên và vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra cả trong trường hợp mức độ lỗi của hai bên là tương đương nhau. Do đó, Tòa án phải xác định mức độ lỗi của từng bên trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại: nếu mỗi bên đều có lỗi tương đương nhau thì mỗi bên phải chịu ½ giá trị thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ không tương đương nhau thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên.

Có thể thấy, bồi thường thiệt hại được quy định trên cơ sở xác định lỗi do chủ thể nào gây ra và xác định được thiệt hại xảy ra trên thực tế khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Vấn đề phức tạp ở đây là xác định lỗi trong thực tế là việc rất khó. Đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức, còn các điều kiện khác đều hợp pháp, Tòa án tuyên các bên phải hoàn thiện hình thức hợp đồng, nếu bên nào không thực hiện được xem là có lỗi và phải đền bù thiệt hại. Đây là đường lối giải quyết rất rõ ràng trong thực tiễn xét xử. Tuy nhiên đối với các trường hợp khác như hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn, hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được hay hợp đồng vô hiệu do người giao kết hợp đồng không có quyền định đoạt hàng hóa mà bên đối tác cũng biết về điều đó thì xác định mức độ lỗi của các bên còn nhiều quan điểm tranh cãi.

Như vậy, hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng trong kinh doanh nói riêng vô hiệu sẽ dẫn tới nhiều hậu quả pháp lý bất lợi, do đó ngay khi xác lập hợp đồng các bên cần tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời, khi tuyên bố một hợp đồng vô hiệu, Tòa án phải xác định đầy đủ các hậu quả pháp lý, đặc biệt là yếu tố lỗi của các bên làm cho hợp đồng vô hiệu, từ đó xác định thiệt hại mà mỗi bên phải gánh chịu thì mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Thứ tư, Tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật

Vẫn theo Điều 137 Khoản 2 BLDS, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật”. Có thể thấy, quy định tịch thu giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được khi hợp đồng vô hiệu được đưa ra nhằm xử lý những tài sản là đối tượng của hợp đồng, nhưng thuộc diện hàng hóa Nhà nước tịch thu, sung công quỹ. Tuy nhiên BLDS lại chưa quy định rõ, thời điểm tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu là trước hay sau khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu?

 Việc xác định rõ thời điểm hàng hóa giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu là trước hay sau khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu sẽ là rất cần thiết, bởi lẽ nó sẽ là một trong các căn cứ xác định chủ thể chịu trách nhiệm

Theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế trước đây, Trọng tài kinh tế có thẩm quyền kiểm tra thường xuyên việc kí kết và thực hiện hợp đồng theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh và kiểm tra đối với hợp đồng có dấu hiệu vi phạm pháp luật từ đó phát hiện các hợp đồng kinh tế vô hiệu và đưa ra xử lý. Trong sự chuyển đổi cơ chế quản lý thì số lượng hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh ngày càng giảm. Thêm vào đó tòa kinh tế được thành lập thay thế cho trọng tài kinh tế kinh tế trước đây thì việc kiểm tra hợp đồng kinh tế vô hiệu không còn nữa. Chính vì vậy, số lượng hợp đồng kinh tế vô hiệu được xử lý giảm mạnh. Số liệu về kết quả xử lý hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu của cơ quan có thẩm quyền trong những năm 1990 đến 1995 cho thấy tỷ lệ hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu chiếm tới 40%, trong đó người đại diện kí kết không đúng thẩm quyền chiếm đến hơn 60%. Số vụ xử lý vi phạm giảm theo các năm, cụ thể: số vụ giải quyết tranh chấp xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng trong kinh doanh của trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990 là 4.732 vụ, năm 1991 là 3.420 vụ, năm 1992 là 1.647 vụ, năm 1993 là 1747 vụ, năm 1995 số vụ án kinh tế chỉ được tòa án giải quyết chỉ bằng 25%vụ so với vụ án do trọng tài kinh tế giải quyết năm 1993. Tuy nhiên, những năm gần đây, các tranh chấp liên quan đến hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu có dấu hiệu tăng lên, do sự tinh vi của chủ thể khi các quy định của pháp luật chưa kịp điều chỉnh hay chưa bao quát hết được.

IX. Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng vô hiệu được thông qua các vụ việc sau:

Vụ số 1:

Ngày 15 tháng 9 năm 2010, bà Th ký với Công ty CBTHSXK – Việt Ph, hai hợp đồng không số, tên gọi là “Hợp đồng vay vốn để sản xuất kinh doanh” cùng do ông Trần Văn K – nguyên giám đốc đại diện ký, cho Công ty vay 20.000 USD/1 hợp đồng, lãi suất 4,5%/tháng, thời hạn 06 tháng và 12 tháng. Trong hợp đồng, bên cho vay có ghi là bà Nguyễn Thị Th (địa chỉ 35 Nguyễn An N, quận 1 – Thành phố H); bên đi vay là Công ty CBTHSXK – Việt Ph, do ông Trần Văn K – Giám đốc (địa chỉ 57 Nguyễn T, quận 1, Thành phố H) đại diện. Hợp đồng chỉ có chữ ký của ông K, không đóng dấu Công ty.

Thực hiện hợp đồng, bà Th đã giao cho ông K 38.000 USD, ông K đã trả được 3.353 USD nên vốn gốc chỉ còn là 34.647 USD. Khi bà Th giao USD cho ông K không có biên lai ký nhận của Kế toán trưởng hay Thủ quỹ của Công ty CBTHSXK – Việt Ph. Công ty CBTHSXK- Việt Ph không có lưu hợp đồng hoặc các chứng từ liên quan trong hồ sơ tại Phòng tài vụ – kế toán của Công ty CBTHSXK – Việt Ph. Ông Trần Văn K không báo việc ký kết, thực hiện hợp đồng với bà Th trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty CBTHSXK – Việt Ph.

Hết hạn thanh toán, bà Th kiện Công ty CBTHSXK – Việt Ph; yêu cầu Công ty CBTHSXK – Việt Ph phải trả cho bà Th các khoản tiền sau:

– Vốn gốc là 34.647 USD tương đương 557.123.760 đồng;

– Lãi là 733.354.928 đồng.

Tổng cộng tính tròn hai khoản là: 1.290.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng trên vô hiệu do bị lừa dối, vi phạm điều cấm của pháp luật

Bình luận

Thứ nhất: Về hình thức, hai “Hợp đồng vay vốn để kinh doanh” cùng ký ngày 15/9/2010 được xác lập giữa bà Th với Công ty CBTHSXK – Việt Ph. Tuy nhiên, thực tế thực hiện hợp đồng lại thể hiện đây là quan hệ cho vay giữa cá nhân với cá nhân (bà Th và ông K), với những tình tiết để chứng minh là việc giao tiền được thực hiện giữa cá nhân bà Th với ông K, không qua tài khoản Công ty, nội bộ Công ty không được biết về việc vay tiền này, hợp đồng không theo biểu mẫu hợp đồng của Công ty và không được đóng con dấu Công ty. Vì vậy, việc bà Th khởi kiện đề nghị Tòa án buộc chính Công ty CBTHSXK – Việt Ph trả nợ sẽ không được Tòa án chấp nhận.

Có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng được đóng dấu của Công ty, thì cho dù ông K đứng ra nhận tiền, không chuyển tiền cho Công ty, Công ty vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ. Còn việc ông K sử dụng danh nghĩa của Công ty vay tiền, không trả được nợ, gây thiệt hại cho Công ty sẽ được xem xét ở quan hệ pháp luật khác.

Vấn đề mấu chốt không phải là hợp đồng được đóng dấu Công ty hay không được đóng dấu Công ty vì xét cho cùng con dấu không làm thay đổi bản chất và hiệu lực của hợp đồng. Việc đóng dấu chỉ là sự xác thực về mặt hành chính chữ ký của người có thẩm quyền đại diện cho một tổ chức. Quan trọng là để làm rõ bản chất quan hệ cho vay được xác lập giữa bà Th với Công ty hay với cá nhân ông K, cần phải xác định:

+ Ý chí cho vay của bà Th là cho Công ty hay cá nhân ông K vay? Tại sao bà Th chuyển tiền cho cá nhân ông K mà không qua tài khoản, kế toán Công ty?

+ Ý chí của ông K là vay với danh nghĩa cá nhân hay dưới danh nghĩa đại diện cho Công ty? Tại sao ông K trực tiếp nhận tiền, trả tiền, không qua sổ sách kế toán Công ty, không thông báo việc vay nợ trong nội bộ Công ty?

Việc làm rõ ý chí của các bên, một mặt để xác định rõ bản chất quan hệ hợp đồng, mặt khác còn làm rõ hiệu lực của giao dịch (hợp đồng sẽ vô hiệu do bị lừa dối nếu ý chí bà Th là cho Công ty vay nhưng ông K đã lừa dối bà Th để bà Th giao tiền trực tiếp cho ông K) và làm rõ lỗi trong việc ông K lợi dụng danh nghĩa của Công ty để vay tiền, từ đó xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Như vây, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng vô hiệu do lừa dối mà chưa làm rõ bản chất quan hệ hợp đồng trên là không đúng.

Thứ hai: Mặc dù khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, bà Th đã quy đổi giá trị đòi nợ bằng tiền Việt, tuy nhiên việc cho vay bằng USD là đã vi phạm pháp luật nên hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu.

Theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối năm 2005 thì các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng tiền nội tệ. Vi phạm quy định này được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và là một trong những căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật Dân sự.

Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối quy định:

“Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép”.

Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch:

“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
  2. b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
  3. c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
  4. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”

Và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”

Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, các giao dịch được xác lập bằng ngoại tệ khi giải quyết Tòa án sẽ tuyên giao dịch vô hiệu vì cho rằng nội dung của hợp đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật (không được phép giao dịch bằng ngoại hối). Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề giao dịch được xác lập bằng ngoại tệ. Có quan điểm cho rằng việc vi phạm quy định về quản lý ngoại hối chỉ là sự vi phạm về quản lý hành chính và vì vậy các chủ thể chỉ phải chịu chế tài xử phạt vi phạm hành chính mà không làm vô hiệu hợp đồng. Cần thiết phải làm rõ đối tượng của hợp đồng là gì, nếu đối tượng của hợp đồng là giao dịch cho vay thì lúc này nội dung của hợp đồng được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật, còn nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa mua bán, dịch vụ thuê, mượn… thì việc các bên thỏa thuận đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ chỉ làm vô hiệu điều khoản về thanh toán chứ không làm cho nội dung của hợp đồng bị vi phạm điều cấm như cách hiểu hiện nay. Vì vậy, đối với những hợp đồng mua bán, thuê… mà các bên thỏa thuận thanh toán bằng ngoại tệ thì Tòa án chỉ tuyên vô hiệu điều khoản này và buộc các bên phải khôi phục tình trạng đã thực hiện cho đúng quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.

Cùng một vấn đề nhưng có rất nhiều quan điểm khác nhau, do nhận thức của mỗi thẩm phán trước các vấn đề và văn bản pháp luật chưa cụ thể hết các tình huống được.

Vụ số 2:

Ngày 01/8/2010, Công ty điện máy, xe máy, xe đạp TTD (bên A – không có chức năng cho thuê nhà xưởng) và Công ty trách nhiệm hữu hạn T (bên B) có ký hợp đồng thuê nhà xưởng với nội dung: Bên A cho bên B thuê 01 nhà 02 tầng và 03 dãy nhà xưởng trên diện tích 2000 m2 đất tại số 42Q ngõ 67 phố Đ, quận L, thành phố H. Thời hạn thuê từ 01/9/2010 đến 30/8/2012. Giá cho thuê là 140.000.000 đồng/tháng. Bên B thanh toán cho bên A 03 tháng một lần. Nếu chậm thanh toán sẽ bị phạt với mức lãi suất 05%/tháng cho số tiền và thời gian chậm thanh toán.

Sau khi thanh lý hợp đồng, bên B phải giao lại cho bên A toàn bộ mặt bằng, tài sản của bên A và cả phần sửa chữa của bên B (được bên A cho phép).

Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận về trách nhiệm của các bên và chọn cơ quan tài phán.

Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn T đã trả tiền thuê đến hết tháng 3/2011. Sau đó bị đơn không trả tiền thuê nhà nữa, mặc dù phía nguyên đơn đã có nhiều công văn nhắc nhở, bị đơn vẫn không thực hiện.

Do đó đến ngày 11/6/2011, nguyên đơn đã có công văn số 71/ĐM-XĐXM thông báo cho bị đơn về việc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bị đơn trả lại toàn bộ diện tích nhà xưởng đang thuê. Đến ngày 24/8/2011, nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu:

– Bị đơn trả lại toàn bộ diện tích thuê.

– Hoàn trả số tiền thuê nhà còn thiếu là 308.000.000 đồng và lãi là 50.976.875 đồng.

Bình luận

Thứ nhất, Hợp đồng cho thuê nhà xưởng của các bên sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu do bên A không có chức năng cho thuê nhà xưởng để thực hiện hợp đồng, vi phạm Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005, Điều 122 và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp: “Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.”

Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng hợp đồng trên là hợp đồng cho thuê tài sản (là hợp đồng dân sự) nên Bên A không nhất thiết phải có chức năng kinh doanh trong việc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của mình

Thứ hai: Về việc xử lý hậu quả của hợp đồng nêu trên khi bị tuyên vô hiệu cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo quy định của Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hợp đồng bị vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng tiền thì hoàn trả bằng hiện vật và bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

  1. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếukhông hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.”

Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hợp đồng cho thuê nhà xưởng bị vô hiệu thì các bên chấm dứt việc thực hiện hợp đồng và bên đi thuê phải thanh toán tiền thuê cho thời gian đã thuê (vì việc sử dụng không thể hoàn trả nên hoàn trả bằng tiền) vì không có quy định và giải thích cụ thể trường hợp nào thì “lợi tức, hoa lợi” thu được phải bị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu như vậy vô hình chung là đã thừa nhận hợp đồng, đặc biệt là trong trường hợp thời hạn hợp đồng thuê đã hết, các bên đã thực hiện xong hợp đồng và chỉ còn nợ tiền thuê.

Mặt khác, quy định “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” cần phải thống nhất hiểu “lỗi” ở đây là lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu chứ không phải lỗi trong thực hiện hợp đồng vì khi hợp đồng bị vô hiệu thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Nếu đã là lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu thì chỉ có khả năng cả hai bên cùng có lỗi (50/50) hoặc một bên có lỗi (100%) chứ không thể cân nhắc lỗi theo mức 70/30 hay 40/60 v.v… phù hợp với mức độ thiệt hại được. Tuy nhiên, thực tế xét xử hiện nay cho thấy việc xem xét lỗi trong việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu còn rất khác nhau.

Vụ số 3:

Ngày 01/3/2011, Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT ký hợp đồng số 03/HĐ-CT liên doanh kinh tế với nội dung chính là:

Hợp tác xã ĐT đồng ý liên doanh với Công ty cổ phần MT. Công ty cổ phần MT đồng ý đầu tư liên doanh của Hợp tác xã ĐT để chăn nuôi lợn siêu nạc xuất khẩu với hình thức góp vốn, khoán gọn, thu lợi nhuận (lãi suất 0,7%/tháng). Công ty cổ phần MT phải thanh toán lãi cho Hợp tác xã ĐT vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý.

Hợp tác xã ĐT chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh là 500 triệu đồng trong thời gian 05 năm. Hết thời hạn, Công ty cổ phần MT phải thanh toán hết gốc và lãi cho Hợp tác xã ĐT.

Tài sản Công ty cổ phần MT làm thế chấp cho Hợp tác xã ĐT là hệ thống cây xăng đang hoạt động với trị giá 1,4 tỷ đồng.

Ngày 14/3/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty cổ phần MT 150 triệu đồng (phiếu chi số 41) căn cứ vào văn bản đề nghị tạm ứng vốn số 01/VBĐN-CT ngày 06/3/2011 của Công ty cổ phần MT.

Ngày 28/4/2011, Hợp tác xã ĐT đã chuyển cho Công ty cổ phần MT 100 triệu đồng (phiếu chi số 70).

Công ty cổ phần MT sau khi ký hợp đồng với Hợp tác xã ĐT đã ký 03 hợp đồng về lợn giống, thiết bị chuồng lợn với Xí nghiệp tập thể BH, Công ty cổ phần Hùng S, Công ty trách nhiệm hữu hạn CHAROEN P – Những hợp đồng này Công ty cổ phần MT không chuyển đúng tiền thanh toán trong hợp đồng nên đã bị phạt 221.323.550 đồng và các thiệt hại khác. Tổng thiệt hại hơn 300 triệu đồng.

Công ty cổ phần MT đã chuyển Hợp tác xã ĐT tiền lợi nhuận khoán gọn hàng tháng (từ tháng 3/2011 đến tháng 11/2011, tổng số tiền lợi nhuận đã chuyển là 11.550.000 đồng). Từ tháng 11/2011, Công ty cổ phần MT ngừng chuyển tiền lãi cho Hợp tác xã ĐT.

Phía Hợp tác xã ĐT, sau khi ký hợp đồng với Công ty cổ phần MT đã bị Ủy ban kiểm tra huyện C kiểm tra và kết luận việc ký và thực hiện hợp đồng liên doanh kinh tế giữa Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT là vi phạm điều lệ Hợp tác xã, Nghị quyết đại hội xã viên bất thường ngày 07/6/2011, không tìm hiểu kỹ đối tác kinh doanh mà huyện ủy C đã có thông báo số 151/TB-HU. Đại hội đại biểu xã viên Hợp tác xã ĐT ngày 29/5/2011 đã yêu cầu thu hồi số tiền 250 triệu đồng cho Công ty cổ phần MT vay về quỹ Hợp tác xã.

Từ ngày 01/6/2011 đến 09/11/2011, Hợp tác xã ĐT liên tục yêu cầu Công ty cổ phần MT thanh lý hợp đồng, yêu cầu Công ty cổ phần MT chuyển trả lại 250 triệu đồng mà Hợp tác xã đã chuyển, nhưng Công ty cổ phần MT không thực hiện.

Còn Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT hoặc thanh lý hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng Hợp tác xã ĐT phải bồi thường đầy đủ mọi thiệt hại của Công ty cổ phần MT do Hợp tác xã ĐT gây ra.

Tranh chấp giữa hai bên không giải quyết được. Ngày 10/02/2012, Hợp tác xã ĐT gửi đơn và hồ sơ khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố HP đề nghị giúp Hợp tác xã ĐT thu hồi 250 triệu đồng đã chuyển cho Công ty cổ phần MT. Công ty cổ phần MT cũng có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án buộc Hợp tác xã ĐT phải bồi thường các thiệt hại phát sinh cho Công ty cổ phần MT.

Bình luận

Thứ nhất: Hợp đồng liên doanh kinh tế số 03/HĐ-CT ký kết ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT và Công ty cổ phần MT bị vô hiệu toàn bộ.

Tại Điều 2 của hợp đồng có quy định: Hợp tác xã ĐT chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh là 500.000.000 đồng vào vốn lưu động của Công ty cổ phần MT trong thời hạn 05 năm. Nhưng tại Điều 1, Điều 3 quy định: khoán gọn, thu lợi nhuận lãi suất 0,7%/tháng. Công ty cổ phần MT đã phải trả lãi hàng tháng cho Hợp tác xã ĐT cho đến tháng 11/2011. Tại văn bản đề nghị số 01/VBĐN-CT ngày 06/3/2011 của Công ty cổ phần MT xác định Hợp tác xã ĐT là bên đầu tư tài chính cho Công ty cổ phần MT trên cơ sở khoán gọn, trả lãi hàng tháng theo hợp đồng số 03/HĐ-CT ngày 01/3/2011.

Giấy ủy quyền nhận tiền số 01/GUQ-CT ngày 11/3/2011 của Công ty cổ phần MT ghi rõ là nhận số tiền vay 150.000.000 đồng. Phiếu chi số 41 ngày 14/3/2011 của Hợp tác xã ĐT ghi rõ chi theo văn bản đề nghị vay vốn của Công ty cổ phần MT. Phiếu chi 100.000.000 đồng ngày 28/4/2011 của Hợp tác xã ĐT ghi chi theo hợp đồng vay vốn. Một số phiếu thu của Hợp tác xã ĐT ghi rõ thu tiền lãi cụ thể: phiếu thu số 02 ngày 28/6/2011, phiếu thu số 24 ngày 15/5/2011; phiếu thu số 01 ngày 15/6/2011; phiếu thu số 06, 07 ngày 18/7/2011.

Từ căn cứ trên thể hiện, thực chất hợp đồng kinh tế số 03/HĐ-CT ngày 01/3/2011 giữa Hợp tác xã ĐT với Công ty cổ phần MT chỉ là hợp đồng vay vốn.

Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh bị vô hiệu do giả tạo vì che dấu bản chất là một hợp đồng cho vay vốn theo Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.

Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”

Giao dịch bị che giấu ở đây là hợp đồng cho vay vốn vẫn bị vô hiệu vì vi phạm Điều 6, Điều 7 của Luật Hợp tác xã năm 2003. Cụ thể, Hợp tác xã không được cho vay đối với các tổ chức, cá nhân không phải là xã viên Hợp tác xã và không được kinh doanh ngoài những ngành, nghề đã đăng ký.

 Khoản 8 Điều 6 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có quyền: “Vay vốn của tổ chức tín dụng và huy động các nguồn vốn khác; tổ chức tín dụng nội bộ theo quy định của pháp luật.”

Khoản 1 Điều 7 Luật Hợp tác xã quy định Hợp tác xã có nghĩa vụ: “Sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đúng ngành, nghề, mặt hàng đã đăng ký.”

Thứ hai: Công ty cổ phần MT yêu cầu Hợp tác xã ĐT phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do có lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là không có cơ sở để chấp nhận bởi Công ty cổ phần MT buộc phải có nghĩa vụ biết chức năng kinh doanh của Hợp tác xã là không được phép cho vay vốn. Vì vậy, trong trường hợp này lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu là 50/50 (trừ khi Hợp tác xã ĐT lừa dối làm cho Công ty cổ phần MT tin vào việc Hợp tác xã có chức năng này), Công ty cổ phần MT phải gánh chịu 1/2 thiệt hại của mình.

Từ thực tiễn giải quyết các hợp  đồng dân sự đã cho thấy Tòa án còn lúng túng trong việc việc xác định những nội dung chưa được cụ thể trong luật, mà ở đây cần có sự linh hoạt hơn nữa trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Có rất nhiều vấn đề còn gây tranh cãi, khi Tòa án cấp sơ thẩm theo quan điểm này, tòa án cấp phúc thẩm lại theo quan điểm khác, chính những điều đó dẫn đến sự không thống nhất, các chủ thể không tin tưởng vào pháp luật. Hơn hết, đây là cơ hội cho những tiêu cực tồn tại.

X. Qua những phân tích, đánh giá ở trên, tổng hợp một số tồn tại trong thực tiễn áp dụng và giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong kinh doanh vô hiệu tại Việt Nam.

Thứ nhất,

Các quy định của pháp luật còn thiếu chặt chẽ, điều này thể hiện ở một số những quy định của pháp luật về điều kiện vô hiệu của hợp đồng. VD: Về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn đối với qui định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn, BLDS Việt Nam chưa nhấn mạnh vào mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng nhằm tránh các trường hợp người bị nhầm lẫn cẩu thả nghiêm trọng trong xác lập hợp đồng. Nói cách khác qui định về nhầm lẫn trong Điều 131 BLDS 2005 chưa có cái nhìn mang tính chất khách quan về việc xem xét lỗi đối với các bên xác lập hợp đồng (bên nhầm lẫn và bên gây nhầm lẫn) dẫn tới hậu quả pháp lý có thể không công bằng đối với các bên. Mặt khác, theo Điều 131 BLDS qui định thì chỉ cần “một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch” thì giao dịch đó đã có thể bị xem xét tính có hiệu lực. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng gồm rất nhiều các điều khoản khác nhau trong đó có những điều khoản không mang tính chất quyết định đến việc các bên xác lập, thực hiện giao dịch vì thế nếu chỉ qui định chung chung như vậy thì điều luật này có thể được hiểu là nếu nhầm lẫn về bất cứ nội dung nào cũng có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Điều này đương nhiên là không bảo đảm cho các bên sự an toàn khi tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng cũng như thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.

Thứ hai,

Trong xu thế hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu, Bộ luật Dân sự sau này nên dùng thuật ngữ “trật tự công” thay cho thuật ngữ “điều cấm của pháp luật” là căn cứ để tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Pháp luật có đồ sộ đến đâu cũng không thể bao quát hết mọi tình huống trong cuộc sống. Và nhiều khi việc tự do hợp đồng không trái với các điều cấm của pháp luật nhưng vẫn có thể chống lại trật tự công. Ngược lại, nhiều khi trái hay khác với các quy định pháp luật không có nghĩa là sẽ chống lại trật tự công cộng. Bởi vậy, các điều cấm của pháp luật quá cứng nhắc vẫn có thể không bảo vệ được lợi ích chung của cộng đồng. Và thuật ngữ “điều cấm của pháp luật” khi vận dụng pháp luật không linh hoạt sẽ bị lạm dụng để can thiệp quá mức vào các quan hệ hợp đồng. Do đó, khi sử dụng mềm dẻo thuật ngữ “trật tự công” thì các lợi ích chung mới thật sự được bảo vệ.

Thứ ba,

Thực tiễn số vụ việc mà Tòa án chúng ta phát hiện có sự giả tạo và áp dụng chế tài giả tạo chủ yếu không liên quan đến giải tạo để trốn thuế trong khi đó hợp đồng có liên quan đến việc trốn thuế. Chẳng hạn, hai công ty kí kết hợp đồng mua bán cá tra là 2 tỷ nhưng chỉ nêu trong hợp đồng trước công chứng là 1,5 tỉ. Đây là trường hợp giả tạo nhưng các bản án về giả tạo ở Việt Nam lại không liên quan đến vấn đề này. Tại sao lại như vây? ở Việt Nam hợp đồng có giá trị 2 tỉ có giá trị pháp lý giữa các bên và hợp đồng 1,5 tỉ vô hiệu nên bên mua và bên bán không có lợi ích gì mà “ tố cáo” sự giả tạo ra Tòa án nên chúng ta không có cơ hội phát hiện ra vi phạm.

Ở Pháp, đối với lĩnh vực trốn thuế, họ lại theo hướng là giữa các bên, thì hợp đồng thực tế vô hiệu và chỉ hợp đồng bề ngoài có giá trị pháp lý. Như vây, bên mua có lợi khi tố cáo giả tạo vì hợp đồng thực tế vô hiệu nên không phải trả 2 tỉ mà chỉ hợp đồng giả tạo có giá trị pháp lý nên chỉ phải trả 1,5 tỉ, lợi ích cá nhân khi tố cáo giả tạo sẽ thúc đẩy bên mua sẽ tố cáo giả tạo ra Tòa.

Thứ tư,

Ở Việt Nam, yêu cầu về doanh nghiệp phải hoạt động trong phạm vi ĐKKD được đề cập đầu tiên tại Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Điều 8.1(b) pháp lệnh này quy định rằng hợp đồng sẽ vô hiệu toàn bộ nếu “Một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật…”. Tiếp theo đó, Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 quy định rằng một pháp nhân “phải hoạt động đúng mục đích”. Quy định này là một quy định bắt buộc, việc vi phạm sẽ mang đến hậu quả, trong phạm vi giao dịch dân sự/kinh tế, là hợp đồng vô hiệu. Luật Doanh nghiệp 1999 (LDN 1999) cũng quy định rằng doanh nghiệp có nghĩa vụ “hoạt động kinh doanh theo đúng các ngành, nghề đã đăng ký”. Luật có quy định về hậu quả hành chính đối với hành vi vi phạm. Hậu quả về mặt pháp luật dân sự (giao dịch có vô hiệu hay không) luật không đề cập tới. Kể từ thời điểm ban hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và BLDS 1995, quy định yêu cầu doanh nghiệp phải hoạt động trong phạm vi ĐKKD cũng đã tạo ra rất nhiều phiền toái cho doanh nghiệp làm ăn đứng đắn. Bên ác ý luôn viện đến quy định này để trốn tránh trách nhiệm trả nợ của mình. Tòa án đã vô hiệu rất nhiều hợp đồng chỉ vì doanh nghiệp vi phạm quy định này. Nhận thức được sự vô lý của quy định, TAND tối cao trong Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP đã nới lỏng tính hà khắc của quy định bằng việc cho phép bên không đăng kí kinh doanh nếu đã bổ sung đưang kí kinh doanh trước khi xảy ra tranh chấp (tất nhiên sau khi hợp đồng được giao kết) thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Với việc ban hành BLDS 2005 và Luật Thương mại 2005 đã thay thế BLDS 1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hậu quả vô hiệu tại các văn bản trên đã được gỡ bỏ. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2005 vẫn giữ nguyên điều khoản yêu cầu doanh nghiệp có nghĩa vụ hoạt động trong phạm vi đăng kí kinh doanh tại điều 9.1 của mình. Quy định này là tiền đề cho việc sự trở lại của hậu quả hợp đồng vô hiệu do doanh nghiệp vi phạm phạm vi đăng kí kinh doanh. Để tạo môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh và bảo vệ bên ngay tình, các nhà làm luật Việt Nam, vì lẽ đó, cần phải quy định triệt để về hậu quả dân sự của yêu cầu kinh doanh trong phạm vi đăng kí kinh doanh. Giao dịch vượt quá phạm vi đăng kí kinh doanh có vô hiệu hay không? Trường hợp nào thì vô hiệu và vì sao lại vô hiệu?

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191