Chủ nợ đến lấy tài sản không thông báo cho người vay nợ có vi phạm pháp luật hay không

Câu hỏi được gửi từ khách hàng: Chủ nợ đến lấy tài sản không thông báo cho người vay nợ có vi phạm pháp luật hay không

Gia đình bạn tôi có vay tiền của 1 chủ nợ từ năm 2013, thời hạn vay đến năm 2016, có ký kết giấy xác nhận vay tiền, lãi suất thỏa thuận bằng miệng được trả hàng tháng bằng nông sản. Trong giấy vay tiền ghi nhận đến thời hạn trả nợ gia đình bạn tôi không trả được thì chủ nợ sẽ lấy 3 con bò và lấy đất để trả nợ. Nhưng do gia đình bạn tôi không biết chữ, khi chủ nợ đọc lại văn bản trước khi ký kết, điểm chỉ thì không đọc nội dung liên quan đến 3 con bò mà chỉ xác nhận sẽ lấy đất nên bạn tôi đã đồng ý ký vào giấy ghi nợ. Đến thời hạn trả nợ, sau 1 năm là năm 2017, chủ nợ đến lấy 3 con bò, năm 2018 chủ nợ lấy đất cho người khác sử dụng mà không thông báo cho bạn tôi. Hành vi lấy tài sản trên có vi phạm pháp luật hay không?

Luật sư Tư vấn Luật Hình sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên những thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đưa ra trả lời như sau:

1./ Thời điểm pháp lý

Ngày 11 tháng 05 năm 2018

2./ Cơ sở Pháp Luật liên quan tới vấn đề xử lý việc chiếm dụng tài sản của chủ nợ

  • Bộ luật Dân sự 2005;
  • Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009;
  • Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

3./ Luật sư tư vấn

  • Đối với việc ký kết hợp đồng vay tiền:

Trước hết, việc giao kết thỏa thuận vay tiền nêu trên là trái pháp luật. Thỏa thuận trên dù được xác lập bởi hai bên nhưng có dấu hiệu của việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định pháp luật hình sự bởi: Chủ nợ ở đây có hành vi cố ý không đọc xác nhận lại cho bên vay về nội dung liên quan đến 3 con bò dẫn đến thông tin bên vay tiếp nhận được bị thiếu và sai lệch khi ký vào giấy nhận nợ. Hành vi của chủ nợ ở đây nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của bên vay. Căn cứ theo quy định pháp luật, thỏa thuận vay và hành vi của chủ nợ được xác định như sau:

Thứ nhất, căn cứ Điều 127, Điều 131, Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005, Hợp đồng vay hay giao dịch vay tiền giữa bên chủ nợ và bên vay bị vô hiệu do có sự lừa dối của bên chủ nợ làm cho bên vay hiểu sai lệch về nội dung liên quan đến nội dung vay tiền và trả bằng tài sản khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Cũng theo pháp luật dân sự, trong trường hợp này, hợp đồng dân sự vô hiệu thì các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận, bên vay trả lại số tiền vay, bên chủ nợ trả lại lãi suất, tài sản bù nợ, việc trả lại những gì đã nhận của các bên có thể được bù trừ cho nhau. Tuy nhiên, hợp đồng hay thỏa thuận này chỉ vô hiệu khi bên vay yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng này là vô hiệu, thời hạn yêu cầu tuyên bố là 2 năm kể từ ngày bên vay biết về thông tin trả nợ về 3 con bò.

Thứ hai, Hành vi không thông báo hay xác nhận lại nội dung về 3 con bò cho bên vay dù chủ nợ biết bên vay không biết chữ được xác nhận là hành vi cố ý, mục đích ở đây nhằm chiếm đoạt tài sản của bên vay. Hành vi này có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của bộ luật hình sự thời điểm có hành vi giao kết hợp đồng hay giấy xác nhận nợ diễn ra.

Căn cứ Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được pháp luật quy định như sau:

Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Trên cơ sở pháp luật quy định nêu trên, hành vi của chủ nợ có dấu hiệu phạm tội theo quy định nêu trên khi kí kết thỏa thuận vay tiền với bên vay. Để bảo vệ quyền lợi của mình, bên vay thực hiện quyền và nghĩa vụ  trình báo tố giác tội phạm theo quy định pháp luật tố tụng. Cụ thể, bên vay làm đơn trình báo tố giác tội phạm đối với đối tượng chủ nợ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gửi tới cơ quan công an công an huyện nơi thực hiện hành vi giao kết. Cơ quan công an có trách nhiệm xác minh vụ việc và đảm bảo quyền lợi cho người bị xâm phạm quyền lợi.

  • Đối với hành vi chiếm dụng tài sản của bên vay thay cho việc trả nợ của chủ nợ:

Trong trường hợp này, dù các bên đã có thỏa thuận nhưng khi bên vay chưa đồng ý hay không được thông báo đối với việc lấy tài sản thì việc tự ý lấy tài sản của người khác của chủ nợ là hành vi trái pháp luật.

Việc tự ý đến lấy tài sản hay tự ý chiếm dụng đất đai của người khác mà không thông báo để sử dụng là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trái pháp luật theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 đối với hành vi đến lấy bò của chủ nợ và Điều 172 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 đối với hành vi chiếm dụng đất tại thời điểm các văn bản pháp luật này đang có hiệu lực. Nếu bên vay trong trường hợp này có xảy ra xô xát và chủ nợ có hành vi cưỡng đoạt tài sản của người khác thì trên cơ sở tính chất hành vi thì hành vi này là hành vi cưỡng đoạt tài sản của người khác trái phép theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 với hành vi lấy bò hoặc Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2009 đối với hành vi lấy bò tại mỗi thời điểm thực hiện hành vi.

Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, Bên vay cần thực hiện quyền và nghĩa vụ tối giác tội phạm tới cơ quan công an có thẩm quyền. Cụ thể, bên vay gửi đơn trình báo tố giác tội phạm về hành vi nêu trên của chủ nợ trên cơ sở căn cứ quy định pháp luật tới cơ quan công an điều tra cấp huyện. Cơ quan công an sẽ có nhiệm vụ xác minh vụ việc và thực hiện các trách nhiệm của mình trong phòng, chống tội phạm và bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.

Vậy, trên cơ sở căn cứ pháp luật nêu trên, trường hợp nêu trên có hành vi vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật và xâm phạm nghiêm trong quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Anh/chị cần làm đơn trình báo tố giác tội phạm gửi tới cơ quan công an tố giác về các hành vi nêu trên của chủ nợ để kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Với những tư vấn về câu hỏi Chủ nợ đến lấy tài sản không thông báo cho người vay nợ có vi phạm pháp luật hay không, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp trên, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.

 

Bài liên quan:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191