Có được hưởng tài sản của chồng và vợ cả hay không?

Có được hưởng tài sản của chồng và vợ cả hay không?

Tôi kết hôn với chồng năm 1959 và về sống chung một nhà cùng vợ cả của chồng (ngôi nhà này là tài sản của chồng tôi). Gần 10 năm sau tôi và chồng khai hoang một mảnh đất, tôi và chồng ở đó cho đến nay. Vậy tôi có được xác nhận là vợ hợp pháp của chồng tôi hay không? Năm 2006 chồng tôi mất không để lại di chúc, vợ cả của chồng đòi chia 1/3 giá trị tài sản nơi tôi đang ở. Tôi có được chia 1/3 tài sản mà vợ cả đang ở hay không?

Gửi bởi: Cao Hien

Trả lời có tính chất tham khảo

Mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội “về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình” quy định như sau:

“Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn”.

Nghĩa vụ đăng ký kết hôn chỉ đặt ra đối với trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001. Do đó, trường hợp bà đã kết hôn với chồng từ năm 1959 (tức là trước ngày 03/01/1987) thì theo quy định nói trên, kể cả trường hợp bà chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn thì hôn nhân của vợ chồng bà vẫn được công nhận và bà là vợ hợp pháp của chồng.

Theo quy định của Điều 31 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 thì vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật thừa kế. Vì vậy, sau khi chồng bà chết, bà được hưởng một phần tài sản nằm trong khối tài sản chung của hai vợ chồng và một phần tài sản được thừa kế từ tài sản riêng của chồng. Việc phân chia di sản thừa kế phụ thuộc vào việc tài sản thừa kế là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng.

Như bà trình bày, vợ chồng bà đã khai hoang một mảnh đất từ năm 1969 và sinh sống ổn định từ đó đến nay. Do đó, về nguyên tắc mảnh đất này phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng bà và bà có quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với 1/2 giá trị quyền sử dụng đất đó.

Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Có nghĩa là đối với 1/2 giá trị mảnh đất còn lại mới là tài sản thừa kế và bà cùng người vợ cả cũng như những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất chỉ có thể đòi quyền thừa kế đối với khối tài sản này. Việc người vợ cả đòi chia 1/3 giá trị mảnh đất nơi bà đang ở là hoàn toàn không có cơ sở.

Ngoài ra, vì bà được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp của chồng nên bà không những có quyền thừa kế 1 phần đối với 1/2 giá trị mảnh đất nói trên mà còn có quyền thừa kế đối với 1 phần giá trị tài sản là ngôi nhà hiện người vợ cả đang ở nếu ngôi nhà đó được xác định là tài sản thừa kế do chồng bà để lại. Do chồng bà không để lại di chúc nên bà có thể làm đơn yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình”

Luật 22/2000/QH10 Hôn nhân và gia đình

Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Vụ Hành chính tư pháp


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191