Có kê biên nhà ở đã bán trước khi có bản án sơ thẩm không?

Có kê biên nhà ở đã bán trước khi có bản án sơ thẩm không?

 

 

Bà A nợ tôi một số tiền nhưng không trả, tôi đã khởi kiện ra Tòa án và có được bản án tuyên buộc bà A phải trả tiền. Khi cơ quan thi hành án xác minh tài sản tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thì hai căn nhà và đất gắn liền vẫn đứng tên bà A. Tuy nhiên, khi gửi thông báo cưỡng chế thì có đơn khiếu nại của bà B và ông C (là em ruột của bà A). Bà B cho rằng bà đã nhận chuyển nhượng của bà A. Ông C cũng cho rằng ông đã ký hợp đồng chuyển nhượng với bà A. Sau khi xác minh, cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu tôi phải có văn bản không yêu cầu kê biên cưỡng chế vì hai căn nhà này đã được chuyển nhượng hợp pháp từ bà A sang bà B và ông C tại Văn phòng công chứng. Xin lưu ý rằng hợp đồng giữa bà A và bà B được ký sau khi tôi khởi kiện 1 tháng, còn hợp đồng giữa bà A và ông C là trước khi tôi khởi kiện 3 ngày. Do vậy, cơ quan thi hành án trả lại đơn của tôi và cho rằng những hợp đồng này đều được ký trước ngày bản án sơ thẩm nên họ không thể kê biên, căn cứ vào Thông tư 14. Sau đó, tôi đã nộp đơn đề nghị Tòa án cho hủy các hợp đồng chuyển nhượng vì những hợp đồng này là giả tạo, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, nhưng Tòa án không nhận đơn vì cho rằng tôi không có quyền lợi gì liên quan đến hợp đồng, nên không thể yêu cầu hủy. Xin cung cấp thêm rằng mặc dù hợp đồng chuyển nhượng đã ký cách đây 2 năm, nhưng hiện hai căn nhà này vẫn do bà A quản lý, hai bên vẫn không làm thủ tục chuyển tên trên giấy tờ. Xin cho tôi hỏi ba vấn đề sau:

– Cơ quan thi hành án giải quyết như vậy là đúng hay sai?

– Bằng cách nào để tôi có thể hủy việc chuyển nhượng?

– Việc quy định tại Thông tư 14 tạo kẽ hở, khi chỉ cho cơ quan thi hành án dân sự kê biên đối với những giao dịch nào xảy ra sau ngày có bản án sơ thẩm. Cách nào để tôi thu hồi lại tài sản của mình khi luật quy định như trên?

 

Gửi bởi: Cao Hà Giang

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự về kê biên, xử lý tài sản để thi hành án thì kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án. Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án.

Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở năm 2005 quy định “bên mua, bên nhận tặng cho, bên đổi, bên được thừa kế nhà ở có trách nhiệm nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo trình tự quy định tại Điều 16 của Luật này, trừ trường hợp bên bán nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở hoặc các bên có thỏa thuận khác. Quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về nhà ở giữa cá nhân với cá nhân hoặc đã giao nhận nhà ở theo thỏa thuận trong hợp đồng đối với giao dịch về nhà ở mà một bên là tổ chức kinh doanh nhà ở hoặc từ thời điểm mở thừa kế trong trường hợp nhận thừa kế nhà ở”.

Đối chiếu với quy định nêu trên, nếu đúng là hai căn nhà đã được bán và hợp đồng mua bán nhà ở đã trước khi có bản án sơ thẩm (mặc dù hợp đồng giữa bà A và bà B được ký sau khi ông khởi kiện 1 tháng, còn hợp đồng giữa bà A và ông C là trước khi ông khởi kiện 3 ngày) thì không có căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự kê biên để thi hành án cho ông, vì hợp đồng mua bán nhà ở đã hoàn thành, quyền sở hữu nhà ở đã được chuyển cho bên mua trước khi có nghĩa vụ thi hành án.

Tuy nhiên, nếu hai căn nhà nêu trên có diện tích đất liền kề không gắn liền với nhà ở thì theo tại khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Do đó, nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực hiện đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên diện tích đất đó để thi hành án. Vì thế, ông cần xem xét, xác minh cụ thể về việc chuyển nhượng đất để đề nghị cơ quan thi hành án dân sự, Tòa án giải quyết bảo đảm quyền lợi của mình.

Các văn bản liên quan:

Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai

Luật 56/2005/QH11 Nhà ở

Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191