Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại

Khi thực hiện hợp đồng thương mại, các bên tham gia hợp đồng có thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận vì những nguyên nhân chủ quan hoặc nguyên nhân khách quan khác nhau. Nhằm ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng đồng thời bảo đảm công bằng cho các bên tham gia bị vi phạm, hệ thống pháp luật các quốc gia đều có quy định các hình thức chế tài trong thương mại, mỗi hình thức chế tài mang lại những hậu quả bất lợi khác nhau đối với bên vi phạm hợp đồng. Bên cạnh các chế tài bất lợi, pháp luật cũng quy định một số trường hợp mà bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng được miễn trách nhiệm, không phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do bị áp dụng các hình thức chế tài thương mại, đó là các trường hợp miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các trường hợp miễn trừ trách nhiệm được quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005. Để hiểu rõ hơn về các trường hợp được miễn trách nhiệm hiện nay và đưa ra một số ý kiến cá nhân về việc quy định các trường hợp đó, em đã chọn tìm hiểu đề bài: “ Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại”.

 

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI

1. Một số khái niệm

a) Hợp đồng thương mại

Khi nói đến hợp đồng, tức là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của các bên[1]. Hợp đồng là một hành vi pháp lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ.

Trong Luật thương mại Việt Nam không có khái niệm Hợp đồng thương mại, nhưng có thể hiểu Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại.

Các hoạt động thương mại được xác định theo LTM 2005, cụ thể tại Điều 1 LTM 2005, theo đó bao gồm : hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam; hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn áp dụng Luật này hoặc Luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó áp dụng luật này.

b) Hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Vi phạm tức là “làm trái với quy định”. Căn cứ vào khái niệm vi phạm hợp đồng tại khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, có thể hiểu hành vi vi phạm hợp đồng thương mại là hành vi của một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật Thương mại.

c) Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại

Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là một chế tài pháp sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu khi thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng thương mại.

d) Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Miễn trách nhiệm là việc loại bỏ hậu quả pháp lý bất lợi khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ được giao. Vậy, miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại là việc bên có hành vi vi phạm không phải chịu trách nhiệm vật chất trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.

2. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại

Căn cứ Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005, Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại bao gồm:

– Do các bên thỏa thuận

– Trường hợp do sự kiện bất khả kháng

– Trường hợp hành vi vi phạm của một bên do lỗi của bên kia

– Trường hợp vi phạm do chấp hành quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

3. Ý nghĩa của việc quy định trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại

Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh luôn được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Các hợp đồng thương mại được giao kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải chịu những chế tài theo thỏa thuận của các bên hoặc quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vì một số lý do mà bên vi phạm mới có hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình. Do đó, việc quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm trong hợp đồng thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi cho các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng thương mại. Trước hết, là tôn trọng ý chí tự nguyện của các bên khi các bên tự thỏa thuận về việc miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng. Bên cạnh đó, bảo vệ công bằng và lợi ích cho bên chủ thể bị vi phạm khi vì những nguyên nhân khách quan mà dẫn đến vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, đồng thời góp phần điều tiết lợi ích, bảo vệ quyền và lời ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại và góp phần đảm bảo trật tự vận hành của nền kinh tế.

II. CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

1. Miễn trừ trách nhiệm do các bên thỏa thuận

Trong hệ thống pháp luật nước ta, pháp luật dân sự nói chung hay pháp luật thương mại nói riêng luôn đề cao tính tự do thỏa thuận của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng. Do vậy, căn cứ theo điểm a Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 các bên được quyền tự thỏa thuận với nhau khi giao kết hợp đồng thương mại các trường hợp miễn trừ trách nhiệm nếu có hành vi vi phạm hợp đồng. Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trừ trách nhiệm phải tồn tại trước khi xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Khi hợp đồng được giao kết bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách nhiệm được ghi nhận trong nội dung hợp đồng hoặc trong phụ lục hợp đồng. Nhưng kể cả khi hợp đồng đã ký kết mà các bên muốn thỏa thuận bổ sung thì vẫn có thể thỏa thuận bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung vào hợp đồng các trường hợp miễn trách nhiệm. Khi hợp đồng được giao kết bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể thì thỏa thuận miễn trách nhiệm cũng có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, việc chứng minh sự tồn tại một thỏa thuận không bằng văn bản sẽ gặp những khó khăn nhất định.

2. Miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng

Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Điều này có nghĩa là dù hợp đồng có thỏa thuận hay không thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm. Căn cứ này được ghi nhận tại điểm b Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 nhưng không quy định cụ thể thế nào là sự kiện bất khả kháng.

Khái niệm “Sự kiện bất khả kháng” không được trực tiếp ghi nhận trong Luật Thương mại năm 2005, tuy nhiên, có thể tìm hiểu nội dung thuật ngữ này qua khoản 1 Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2005. Hơn nữa, thuật ngữ này cũng được sử dụng thống nhất ngay cả trong pháp luật hành chính, cụ thể là khoản 14 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Theo đó, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.Tuy nhiên, để một sự kiện được coi là sự kiện bất khả kháng trong thương mại thì nó phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:

Về tính chất: là một sự kiện khách quan, nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiểm họa thiên nhiên (động đất, sóng thần, mưa lũ, sạt lở đất,…), các sự biến xã hội (đình công, bạo loạn, giặc giã, chiến tranh,…) và các hiểm họa do cháy nổ tự nhiên.

Về thời điểm: sự kiện này phải xảy ra sau khi ký hợp đồng vì khi chưa giao kết hợp đồng thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, và cũng không tính đến câu chuyện chế tài khi vi phạm. Xét về góc độ lý luận, nếu sự kiện khách quan này mà xảy ra trước hoặc trong khi giao kết hợp đồng thì nó sẽ đi ngược lại mục đích của hoạt động thương mại là sinh lợi. Không một thương nhân nào lại chấp nhận những thiệt hại mà mình biết rõ nó đang xảy ra.

Về việc dự trù: sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra không thể dự đoán trước được. Các chủ thể tham gia vào hợp đồng thương mại, không phải chủ thể nào cũng có khả năng đánh giá và dự trù những rủi ro có thể xảy ra. Năng lực đánh giá xem xét một sự kiện có xảy ra hay không được xét từ vị trí của một chủ thể bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu.

Về hậu quả: Hậu quả do sự kiện bất khả kháng để lại có tính tất yếu khách quan, tức là bên vi phạm đã sử dụng hết các biện pháp cần thiết nhưng cũng không thể ngăn ngừa, phòng chống cũng như hạn chế thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vẫn không thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.[2]

Bên cạnh đó, quy định về trường hợp bất khả kháng ở những văn bản pháp lý khác nhau lại có những quy định khác nhau. Tại một số văn bản khác cũng điều chỉnh về vấn đề thương mại lại quy định các trường hợp bất khả kháng theo phương pháp liệt kê, ví dụ như Luật Hàng không dân dụng 2006 sửa đổi, bổ sung 2014  quy định về trường hợp miễn trách nhiệm trong đó có trường hợp là một sự kiện bất khả kháng đó là: do xảy ra chiến tranh hoặc xung đột vũ trang[3]) hoặc các quy định tại Bộ luật Hàng hải năm 2005, các sự kiện bất khả kháng đó bao gồm: tàu biển không đủ khả năng đi biển (người vận chuyển có nghĩa vụ chứng minh đã thực hiện nhiệm vụ một cách mẫn cán); Hoả hoạn tự nhiên không do người vận chuyển gây ra; Thảm họa hoặc tai nạn hàng hải trên biển, vùng nước cảng biển mà tàu biển được phép hoạt động; Thiên tai; Chiến tranh; Hành động xâm phạm trật tự an toàn công cộng mà người vận chuyển không gây ra; Hành động bắt giữ của người dân hoặc cưỡng chế của Toà án; Hạn chế về phòng dịch; Đình công; Bạo động hoặc gây rối[4].

Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây: Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng. Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định trên đây, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn trên, bên từ chối phải thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. Nhưng việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng quy định trên đây không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ.[5]

Tuy nhiên trên thực tế, sự kiện bất khả kháng không áp dụng đối với một số loại hợp đồng đặc thù, ví dụ như Hợp đồng vay vốn ngân hàng. Vì khi đã vay được tiền thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm trả nợ và tất cả các hợp đồng vay vốn đều buộc bên vay phải trả nợ trong mọi trường hợp chứ không được miễn trách nhiệm trả nợ trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Nếu bên vay lợi dụng Điều 294 để đòi miễn trách nhiệm trả nợ khi có sự kiện bất khả kháng thì chắc sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng.

3. Miễn trừ trách nhiệm khi hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia

Để đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế[6], điểm c Điều 294 Luật Thương mại 2005 đã ghi nhận hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia là một căn cứ miễn trách nhiệm trong hợp đồng.

Lỗi được coi là một trong những yếu tố để xác định trách nhiệm trong dân sự. Lỗi này có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Về bản chất, thì các bên đều có hành vi vi phạm, tuy nhiên, sự vi phạm của một bên có nguyên nhân chủ yếu từ lỗi của bên bị vi phạm. Chẳng hạn, bên vi phạm đã làm theo một chỉ dẫn không rõ ràng của bên bị vi phạm dẫn đến thiệt hại. Trong trường hợp này, bên vi phạm đã được loại trừ lỗi cấu thành nên hành vi vi phạm, bên bị vi phạm sẽ chịu những rủi ro về thiệt hại này.

Bên cạnh điểm c Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005, trường hợp miễn trách còn được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành thương mại khác. Điều 165 Luật Hàng không dân dụng năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định:

1. Trong trường hợp chứng minh được thiệt hại xảy ra do lỗi của bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, người vận chuyển được miễn một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

2.Trong trường hợp chứng minh được thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ của hành khách xảy ra do lỗi của hành khách, người vận chuyển được miễn một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của hành khách; người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ của hành khách nếu thiệt hại đó hoàn toàn do tình trạng sức khoẻ của hành khách gây ra”.

Trong Điều 78 Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định miễn trách đối với người vận chuyển, người vận chuyển sẽ được miễn trách khi có lỗi của người khác hoặc không do lỗi của người vận chuyển: Lỗi của thuyền trưởng, thuyền viên, hoa tiêu hàng hải hoặc người làm công của người vận chuyển trong việc điều khiển tàu; Hành động hoặc sự sơ suất của người giao hàng, chủ sở hữu hàng, đại lý hoặc đại diện của họ; Bất kỳ nguyên nhân nào khác xảy ra mà người vận chuyển không có lỗi hoặc không cố ý gây ra.[7]

Đối với hợp đồng bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ được miễn trách nhiệm khi thiệt hại xảy ra đối với bên mua bảo hiểm hoàn toàn do lỗi cố ý của bên mua.[8]

4. Miễn trừ trách nhiệm khi hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng

Điểm d Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 ghi nhận trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng thương mại là một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại.

Xét về bản chất, hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước là hành vi vi phạm do sự kiện bất khả kháng về sự biến pháp lý. Rõ ràng, các bên cũng không lường trước được những vi phạm và thiệt hại khi có một quyết định của nhà nước xen vào. Đó có thể là quyết định hành chính (quyết định xử phạt vi phạm, quyết định trưng thu,…) hoặc quyết định của cơ quan tư pháp (bản án, quyết định). Miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm.

Quyết định của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng.

Bên cạnh Điểm d Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005, Bộ luật Hàng hải năm 2005 (điểm g khoản 2 Điều 78) và Luật Hàng không dân dụng năm 2006 sửa đổi, bổ sung 2014 (Điểm b Khoản 3 Điều 165) cũng quy định về các trường hợp miễn trách khi thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

III. BÌNH LUẬN VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI

Trước hết, có thể thấy Điều 294 Luật Thương mại 2005 đã quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại khá mở và tôn trọng sự thoả thuận của các bên khi quy định bên vi phạm sẽ được miễn trừ trách nhiệm khi xảy ra các trường hợp mà các bên đã thoả thuận. Nếu các bên không có thoả thuận trong hợp đồng thì bên vi phạm sẽ được miễn trừ trách nhiệm khi: i) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;  ii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; iii) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trừ trách nhiệm.

Trừ khi các bên thoả thuận cụ thể về các trường hợp miễn trách nhiệm, có thể nói, các trường hợp miễn trách nhiệm mà Điều 294 Luật Thương Mại 2005 quy định nêu trên còn khá chung chung và khó hiểu mà lại không bao quát hết được các trường hợp miễn trách nhiệm, cụ thể:

1. Về trường hợp miễn trừ trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng

Luật Thương mại 2005 hiện hành có quy định miễn trừ nhưng không giải thích thế nào là sự kiện bất khả kháng. Từ quy định của 1 Điều 161 Bộ luật dân sự 2005 về sự kiện bất khả kháng, ta có thể áp dụng vào lĩnh vực thương mại như sau: “… Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

Có thể thấy Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định khá trừu tượng, khó hiểu rõ nội hàm của khái niệm sự kiện bất khả kháng là như thế nào, làm cho việc áp dụng trường hợp này khá khó khăn.

Sự kiện bất khả kháng có thể được hiểu là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… hoặc các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ…[9]  Việc chứng minh có tồn tại sự kiện bất khả kháng thuộc về nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng, nhưng việc bên đó được hay không được miễn trừ lại phụ thuộc vào bên bị vi phạm hoặc cơ quan chức năng có chấp nhận nó là sự kiện bất khả kháng hay không. Với một khái niệm còn quá khái quát thì việc tìm được tiếng nói chung giữa các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại và nhất là ảnh hưởng đến lợi ích của mội bên là không hề dễ dàng.

Ngoài ra, Điều 294 chỉ quy định chung chung sự kiện bất khả kháng là điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm nhưng chưa nêu được mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng. Về bản chất, để có thể được miễn trừ trách nhiệm, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên ký hợp đồng và sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân dẫn đến kết quả là bên vi phạm không thể thực hiện được theo đúng cam kết. Ở đây, rõ ràng Điều 294 chưa thể hiện được mối quan hệ đó.

Trong khi sự kiện bất khả kháng chưa được hiểu một cách thống nhất trong dân sự và trong thương mại thì trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn ghi nhận về trường hợp “Trở ngại khách quan” trong Bộ luật Dân sự 2005.

Trở ngại khách quan là một khái niệm độc lập hoàn toàn so với sự kiện bất khả kháng. Tại Khoản 1 Điều 161 Bộ luật dân sự 2005, sau khi giải thích sự kiện bất khả kháng là gì, thì “Trở ngại khách quan” được ghi nhận “là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình”. Nhưng, cũng giống như sự kiện bất khả kháng, khái niệm trên cũng tạo ra sự khó hiểu cho thương nhân và dễ dẫn đến nhầm lẫn với sự kiện bất khả kháng. Tại điểm b Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã giải thích rõ hơn khi quy định: “Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.”

Có thể nói, Trở ngại khách quan cùng với sự kiện bất khả kháng là quy định khá tiến bộ của pháp luật Việt Nam khi tính đến cả những sự kiện nằm ngoài khái niệm sự kiện bất khả kháng làm cản trở chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ. Nhưng trở ngại khách quan chỉ được dùng để xác định thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc thi hành án dân sự mà không được áp dụng cùng với sự kiện bất khả kháng để dẫn đến miễn trừ trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Do đó mà ngoài Điều 294 Luật Thương mại 2005 nêu trên chỉ nhắc đến sự kiện bất khả kháng, Điều 302 Bộ luật dân sự 2005 cũng chỉ quy định: “… Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Mặc dù trên thực tế, những trở ngại khách quan nêu trên hoàn toàn có thể xảy ra đối với thương nhân, theo đó thương nhân không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng, ví dụ: Chủ doanh nghiệp tư nhân chết mà chưa xác định được người thừa kế…, nhưng một lần nữa phải nhấn mạnh rằng, trở ngại khách quan và sự kiện bất khả kháng là hai khái niệm khác nhau, và trở ngại khách quan không được tính đến cùng với sự kiện bất khả kháng để loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng trong thương mại.[10]

Mặt khác, Luật Thương mại 2005 không có quy định làm rõ trường hợp sự kiện bất khả kháng sẽ được thừa nhận là căn cứ miễn trừ trách nhiệm nếu nó xảy ra đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay cả bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng. Trên thực tế có thể xảy ra trường hợp bên vi phạm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ là do lỗi của bên thứ ba không thực hiện nghĩa vụ của mình do trường hợp bất khả kháng.

2. Về trường hợp miễn trừ trách nhiệm khi hành vi vi phạm của một bên là do lỗi của bên kia

 Điều 294 chỉ mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên thứ ba rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trừ trách nhiệm. Tuy là các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm trong hợp đồng của họ. Nhưng trong trường hợp không được thoả thuận thì bên vi phạm sẽ không được miễn trừ trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên thứ ba thuộc vào các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm. Về vấn đề này, Luật Thương mại 2005 đã quy định cứng nhắc hơn so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989. Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục ; 2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của Điều này”. Tất cả các luật quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005 đã không kế thừa sự tiến bộ này mà lại loại bỏ nó ra khỏi các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong luật.

Tương tự với trường hợp trên, pháp luật thương mại hiện hành chưa dự liệu trường hợp miễn trừ trách nhiệm do một bên uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể. Theo Công ước Viên 1980 tại Ðiều 79 thì nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó, thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của công ước và người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của công ước được áp dụng cho họ. Như vậy, quy định này của Luật Thương mại 2005 vẫn còn thiếu xót, chưa hoàn toàn tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và đảm bảo để bảo vệ quyền lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại.

3. Về trường hợp miễn trừ trách nhiệm khi hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý

Việc miễn trách nhiệm được áp dụng khi “hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng” tại Điều 294 cũng rất khó hiểu và khó áp dụng. “Các bên” ở trong trường hợp này có nghĩa là cả bên vi phạm và bên bị vi phạm, thế nhưng việc không thể biết quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng chỉ có ý nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng, từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng không có “lỗi”.

Việc bên bị vi phạm có biết hay không thì về bản chất không ảnh hưởng gì đến thái độ của bên vi phạm hợp đồng. Giả sử bên bị vi phạm hợp đồng khi ký hợp đồng biết trước khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chắc chắn dẫn đến việc vi phạm hợp đồng và cứ ký hợp đồng trong khi bên vi phạm hợp đồng không hề biết. Vậy khi có hành vi vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước, bên vi phạm hợp đồng có được miễn trách nhiệm hay không khi bên bị vi phạm chứng minh được mình biết trước quyết định đó? Thêm vào nữa, việc hiểu thế nào là không thể biết để từ đó quy định cho họ được miễn trách nhiệm đối với trường hợp này cũng còn quá chung chung. Việc biết sự tồn tại của quyết định của cơ quan nhà nước có buộc phải theo một nguồn thông tin chính thức hay có thể biết bằng nhiều cách khác nhau? Cơ quan quản lý nhà nước có phải thông báo bằng văn bản hay chỉ cần thông báo bằng miệng về quyết định đó thì thương nhân mới được biết về nó, hay nếu bên bị vi phạm chỉ cần chứng minh các bên biết sự tồn tại của quyết định đó, bất kể biết theo kiểu gì và bằng cách nào cũng đều là chứng cứ để bên vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm?

Bên cạnh đó, Công ước Viên 1980 và pháp luật các nước trên thế giới không thừa nhận trường hợp này là một trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho bên vi phạm trong hợp đồng thương mại. Do đó, khi giao kết thương mại với một bên là nước ngoài, khi gặp phải trường hợp này thì bên vi phạm là chủ thể Việt Nam vẫn phải chịu trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng thương mại mà không được miễn trừ trách nhiệm. Mặc dù vậy, pháp luật thương mại cũng không quy định về trách nhiệm đối với trường hợp này thuộc về ai, trong khi vì quyết định hay chính sách của cơ quan quản lý mà bên vi phạm không thực hiện được nghĩa vụ của mình mới dẫn đến vi phạm xảy ra. Như vậy, đã cho thấy một bất cập nữa trong pháp luật nước ta, điều này ảnh hưởng đến chính lợi ích của chủ thể hoạt động thương mại Việt Nam.

IV. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG THƯƠNG MẠI

 Thứ nhất, quy định cụ thể về các điều kiện để xác định một sự kiện là căn cứ miễn trừ trách nhiệm

Quy định của pháp luật hiện hành chỉ đi vào liệt kê các sự kiện là căn cứ miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại mà không đưa ra khái niệm cũng như điều kiện để áp dụng các căn cứ đó, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Do đó, cần quy định điều kiện để một sự kiện là căn cứ miễn trừ trách nhiệm bao gồm thời điểm xảy ra là sau khi các bên đã ký kết hợp đồng và ở thời điểm ký kết các bên không biết hoặc không thể biết đến việc sự kiện đó sẽ xảy ra; sự kiện đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm; và khi sự kiện đó xảy ra các bên đã áp dụng mọi biện pháp nhưng không thể khắc phục.

Thứ hai, quy định rõ về trường hợp miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả kháng

Cần có quy định làm rõ sự kiện bất khả kháng đối với các bên trong hợp đồng khi có vi phạm xảy ra vì nguyên nhân này cũng như đối với bên thứ ba tham gia trong quan hệ này.

Về trường hợp có bên thứ ba tham gia, sự kiện bất khả kháng cần quy định điều kiện cụ thể để trở thành căn cứ miễn trừ trách nhiệm với bên thứ ba trở thành căn cứ miễn trừ trách nhiệm cho một bên trong hợp đồng thương mại. Chỉ khi hợp đồng của bên vi phạm với bên thứ ba có quan hệ mật thiết với hợp đồng của bên vi phạm với bên bị vi phạm và việc bên thứ ba vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng của bên vi phạm và bên vi phạm không thể khắc phục được. Bên cạnh đó, cũng cần quy định rõ giới hạn của việc áp dụng này, nếu không có thể có thể dẫn chiếu đến nhiều bên và gay thiệt hại cho chính bên bị vi phạm[11].

Thứ ba, bỏ quy định về trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với trường hợp thi hành quyết định của cơ quan quản lý là căn cứ miễn trừ trách nhiệm.

Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế và thuận tiện trong giao lưu thương mại, thì việc bỏ quy định này là hợp lý. Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các điều ước quốc tế, hệ thuống pháp luật của các nước trên thế giới, giúp phát triển giao lưu thương mại với các nước trên thế giới. Có thể thấy, hiện nay chúng ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng hơn, tham gia ngày càng nhiều các hiệp định thương mại và các hiệp ước với các quốc gia khác trong lĩnh vực thương mại. Đối với hoạt động thương mại trong nước, việc quy định này có thể gây ảnh hưởng về lợi ích cho các chủ thể, vì đôi khi hoạt động thương mại không chỉ dừng lại ở hai bên mà theo cơ chế luân chuyển thì miễn trách nhiểm cho chủ thể này nhưng đã vô hình làm cho chủ thể khác có hành vi vi phạm. Đối với hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài, thì hiện nay Công ước Viên và pháp luật các nước không thừa nhận trường hợp miễn trách này. Do đó, ý nghĩa thứ hai là, để đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia hợp đồng thương mại.  Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển, đặc biệt là trong quan hệ thương mại quốc tế.

Vậy, với những trình bày ở trên, có thể thấy pháp luật nước ta đã quy định về trường hợp miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại khá mở. Tuy nhiên các quy định lại không rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trên thực tế và chưa dự trù được hết các trường hợp có thể xảy ra. Điều này đòi hỏi pháp luật cần có những sửa đổi cho hoàn thiện, rõ ràng hơn để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả, bảo vệ tính công bằng trong hoạt động thương mại và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng thương mại cũng cần tự bảo vệ mình bằng việc tự thỏa thuận trước những trường hợp miễn trách nhiệm cho các bên để tránh những rủi ro không đáng có có thể xảy ra trên cơ sở không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

[1] Xem Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005

[2] Chu Tùng Anh, Phân tích và bình luận các quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm

[3] Xem Điểm c Khoản 3 Điều 165 Luật Hàng không dân dụng 2006 sửa đổi, bổ sung 2014

[4] Xem Khoản 1 và điểm b, c, d, đ, e, h, k, l, m Khoản 2 Điều 78 Bộ luật Hàng hải 2005

[5] Xem Điều 296 Luật Thương mại 2005

[6] Điều 80 Công ước Viên 1980 quy định: “Một bên không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong trừng mực mà sự không thực hiện đó là do những hành vi hay sơ suất của chính họ”

[7] Xem Điểm a, i, r Khoản 2 Điều 78 Bộ luật Hàng hải 2005

[8] Xem Điều 39 Luật Kinh doanh Bảo hiểm 2000

[9] Từ điển Luật học

[10] ThS. Bùi Hưng Nguyên, BÌNH LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
TẠI ĐIỀU 294 LUẬT THƯƠNG MẠI 2005

[11] Hoàng Thị Hà Phương, Luận văn Thạc sỹ Luật học: Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191