Một số tồn tại, hạn chế trong Bộ luật Tố tụng Hình sự cần sửa đổi, bổ sung

Một số tồn tại, hạn chế trong Bộ luật Tố tụng Hình sự cần sửa đổi, bổ sung

Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 4, ngày 26/11/2003 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2004, thay thế cho Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988. Qua 10 năm áp dụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự (Bộ luật TTHS) đã đóng góp rất lớn vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.

Tuy nhiên, qua thời gian dài áp dụng Bộ luật TTHS đã bộc lộ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; với Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành sau thời điểm Quốc hội thông qua Bộ luật TTHS nên nhiều nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Đảng chưa được thể chế hóa vào các quy định của Bộ luật TTHS  
Bên cạnh đó, trong bối cảnh một loạt các lĩnh vực về bổ trợ tư pháp, thi hành án hình sự mới chỉ có các văn bản dưới luật quy định về một hoặc một số vấn đề cụ thể nên khi ban hành Bộ luật TTHS, nhiều nội dung của các lĩnh vực này được quy định ngay trong Bộ luật TTHS nhưng mức độ quy định nhiều khi chỉ mang tính nguyên tắc, định hướng cơ bản. Chính vì vậy, khi xây dựng Luật chuyên ngành về mỗi lĩnh vực đã xảy ra trường hợp có quy định mang tính xung đột với nguyên tắc áp dụng Bộ luật TTHS.

Qua nghiên cứu, rà soát Bộ luật TTHS, Luật thi hành án hình sự, Luật giám định tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, Nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng pháp luật khóa XIII và đặc biệt là việc Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 cho thấy việc sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện Bộ luật TTHS hoặc ban hành một Bộ luật TTHS mới cần thể hiện được một số nội dung cơ bản sau đây:

I. Một số vấn đề chung

1. Về định hướng tăng cường công tác tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án

Bộ luật TTHS năm 2003 đã có một chương quy định về “Tranh luận tại phiên tòa” (Chương XXI). Xem xét toàn bộ 05 điều luật của Chương này cho thấy, việc bào chữa của Luật sư tại phiên tòa hay lời bào chữa của bị cáo với các ý kiến kết tội của kiểm sát viên được quy định còn mờ nhạt và không tương xứng. Sau khi xảy ra một số vụ án oan sai gây bức xúc trong dư luận được báo chí đưa tin và trong thực tế nhiều trường hợp tại phiên tòa, kiểm sát viên sau khi đọc bản cáo trạng luận tội với bị cáo, không tranh luận, đối đáp ý kiến bào chữa của luật sư mà chỉ nói giữ nguyên quan điểm đã nêu trong cáo trạng, Hội đồng xét xử vẫn còn một số thiên về ý kiến của kiểm sát viên nên xảy ra tình trạng “án bỏ túi” và tuyên án theo các tài liệu sẵn có trong hồ sơ.

Như vậy, chủ trương tăng cường công tác tranh tụng trong hoạt động xét xử là một định hướng đúng đắn. Trên Thế giới hiện có 2 mô hình tố tụng, đó là “tố tụng xét hỏi” và “tố tụng tranh tụng”. Hoạt động xét xử của nước ta hiện nay được tổ chức theo mô hình tố tụng xét hỏi. Do đó, yêu cầu đặt ra trong việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS là quy định như thế nào, mức độ, liều lượng của hoạt động tranh tụng giữa kiểm sát viên và luật sư, giá trị pháp lý của hoạt động tranh tụng trong cả quá trình xét xử, nghĩa vụ của kiểm sát viên, của Hội đồng xét xử và sự phản ánh, đánh giá về nội dung tranh tụng tại phiên tòa của Hội đồng xét xử qua nhận định về bản án, hậu quả pháp lý của bản án nếu Hội đồng xét xử, kiểm sát viên không bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng.

2. Về định hướng tổ chức Tòa án theo khu vực

Nhằm bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã đưa ra định hướng tổ chức hoạt hoạt động của Tòa án theo khu vực và vẫn bảo đảm nguyên tắc xét xử hai cấp. Có thể nói, đây là thay đổi lớn về thẩm quyền xét xử của Tòa án hiện quy định theo cấp hành chính trong Bộ luật TTHS. Việc thể chế hóa định hướng trong Nghị quyết 49-NQ/TW và quy định cụ thể nguyên tắc tổ chức hoạt động xét xử trong Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua là một yêu cầu quan trọng đặt ra trong Bộ luật TTHS sửa đổi.

Tuy nhiên, nội dung này không thể chỉ được giải quyết bằng các quy định của Bộ luật TTHS mà việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án khu vực cần phải đặt trong mối quan hệ với việc sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức điều tra hình sự, nhất là trong điều kiện tổ chức của cơ quan điều tra hình sự vẫn theo cấp hành chính. Quan điểm của người viết bài này cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS cần đặt trông mối quan hệ và phải được tiến hành đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức điều tra hình sự, Luật tạm giữ tạm giam, cụ thể là Quốc hội cần yêu cầu Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuẩn bị và trình Quốc hội thảo luận cho ý kiến và thông qua các luật này trong cùng kỳ họp sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp sửa đổi, bổ sung để bảo đảm sự thống nhất, logic giữa các luật về tổ chức hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố và xét xử với Bộ luật TTHS.

II. Một số nội dung cụ thể

1. Các nội dung quy định tại Phần thứ năm Bộ luật tố tụng hình sự – Thi hành bản án và quyết định của Tòa án

Phần Thi hành bản án và quyết định của Tòa án trong Bộ luật TTHS năm 2003 bao gồm một số quy định về thi hành các hình phạt tù, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tịch thu tài sản, trục xuất, quản chế, cấm cư trú và thi hành hình phạt tử hình. Tuy nhiên, các quy định này chỉ dừng lại ở mức quy định nguyên tắc chung, việc tổ chức thi hành án trong thực tiễn đều dựa trên Pháp lệnh thi hành án phạt tù, các văn bản của Bộ Công an và các thông tư liên tịch. Các hình phạt khác gồm cải tạo không giam giữ, trục xuất, quản chế, cấm cư trú và thi hành án treo được quy định ở nhiều nghị định khác nhau, không bảo đảm sự thống nhất, không có một đầu mối theo dõi và chịu trách nhiệm quản lý chung về thi hành các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự, cá biệt hình phạt cảnh cáo hoàn toàn chưa được Bộ luật tố tụng hình sự hoặc các văn bản dưới luật quy định.

Do đó, khi ban hành Luật thi hành án hình sự năm 2010 đã kế thừa, chuyển hóa các quy định tại Phần thứ 5 của Bộ luật tố tụng hình sự và quy định cụ thể trình tự, thủ tục, bộ máy tổ chức làm công tác thi hành án hình sự và chế độ thi hành các hình phạt. Điều này đặt ra yêu cầu khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS cần phải rà soát để tránh sự trùng lặp các quy định của Luật THAHS và sửa đổi các quy định về Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 1); Hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 2) và Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3).

2. Vấn đề xử lý tin báo về tội phạm và kiểm sát việc cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát

Điều  103 Bộ luật TTHS quy định thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là từ 20 ngày đến 2 tháng. Tuy nhiên, rất nhiều điều tra viên ở các cấp điều tra khác nhau đều cho rằng khoảng thời gian trên là quá ngắn, không đủ bảo đảm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự vì dù chỉ là xử lý tin báo tội phạm nhưng để xác định được có phải là vụ án hình sự hay không thì công sức, thời gian đầu tư không ít hơn nhiều so với việc điều tra một vụ án. Đây là một nội dung quan trọng cần phải có sự nghiên cứu khảo sát thấu đáo khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS bởi lẽ việc xử lý nhanh chóng, kịp thời đối với hành vi phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng ngừa chung.

Cũng tại Điều 103 Bộ luật TTHS quy định về trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát với cơ quan điều tra cùng cấp. Trong thực tế, việc thực hiện nhiệm vụ này của Viện kiểm sát còn có bất cập. Nguyên nhân là do Bộ luật TTHS chưa có quy định bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện được nhiệm vụ mà pháp luật giao cũng như chưa quy định cơ chế để bảo đảm cho cơ quan công an có nghĩa vụ cung cấp dữ liệu tin báo về tội phạm mà cơ quan công an nhận được khi Viện kiểm sát thực hiện quyền giám sát.

Cụ thể, nếu như tố giác, tin báo tội phạm được gửi đến Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát có thể nắm được qua việc vào sổ theo dõi rồi chuyển cho Cơ quan điều tra cùng cấp xử lý. Nhưng trong trường hợp tin báo tội phạm chỉ được gửi đến cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát không thể có thông tin để kịp thời kiểm sát việc giải quyết của cơ quan điều tra có tuân thủ đúng pháp luật không!

Thực tiễn đã xảy ra trường hợp ở một số cơ quan điều tra do số lượng điều tra viên ít, số lượng tin báo về tội phạm nhiều lại bị ràng buộc về thời hạn giải quyết hoặc vì lý do nào đó cơ quan điều tra nhận được tin báo về tội phạm nhưng không thụ lý vào Sổ theo dõi. Trong trường hợp này, việc kiểm sát hoạt động giải quyết tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát đối với cơ quan điều tra là khó khả thi. Ngoài ra, cũng xảy ra nhiều trường hợp tin báo về tội phạm lại được gửi đến Công an xã, do nhận thức không đúng về tính chất tin báo tội phạm, công an xã lại giữ lại để xử lý thay vì phải chuyển lên cơ quan có thẩm quyền là Công an huyện khi không giải quyết được hoặc giải quyết không đúng, đương sự khiếu nại thì tin báo mới được chuyển lên Công an huyện, như vậy, khi Công an huyện tiếp nhận tin báo về tội phạm do Công an xã chuyển lên thì về mặt thời hạn là đã quá lâu, mất tính kịp thời của yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời dễ xảy ra nguy cơ dân sự hóa quan hệ hình sự hoặc bỏ lọt tội phạm nếu không được phát hiện. Hiện nay, trong Bộ luật TTHS cũng không quy định cơ chế để kiểm sát, hạn chế tình trạng này.

   3. Vấn đề đánh giá chứng cứ là Kết luận giám định trong Bộ luật TTHS

“Điều 66. Đánh giá chứng cứ

1. Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.

2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết của vụ án”.

“Điều 73. Kết luận giám định

1. Người giám định kết luận về vấn đề được yêu cầu giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận đó.

Kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản.

Nếu việc giám định do một nhóm người giám định tiến hành thì tất cả các thành viên đều ký vào bản kết luận chung. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung.

2. Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung”.

Có thể nói “Kết luận giám định” là loại chứng cứ đặc biệt quan trọng, nhất là đối với một số loại tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe thì kết luận giám định về tỷ lệ thương tích còn là yếu tố quyết định trong việc định tội, định khung hình phạt. Để đánh giá chứng cứ thì ngoài những yêu cầu về năng lực trình độ, kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm như quy định tại Điều 66 Bộ luật TTHS quy định ở trên, cần phải xác định rõ được cơ chế đánh giá chứng cứ để tránh sự chủ quan, tùy tiện và loại trừ cả yếu tố tiêu cực của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán.

Hiện nay, trong các vụ án mà bị can, bị cáo có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người bị hại thì tùy theo thời điểm giám định, tổ chức giám định, giám định viên khi được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định, có trường hợp Kết luận giám định xác định tỷ lệ thương tích của người bị hại là … %, xếp loại thương tật tạm thời, có trường hợp xếp loại thương tật vĩnh viễn; có trường hợp cùng một người bị hại khi mới xảy ra hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, kết quả giám định xác định tỷ lệ thương tật là trên 31%, sau một thời gian điều trị, có yêu cầu giám định lại, kết quả giám định xác định tỷ lệ thương tật chỉ là trên 10%.

Như vậy, dù đánh giá chứng cứ (kết luận giám định) với  “đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết của vụ án” thì điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán cũng không thể xác định lấy kết luận giám định xác định tỷ lệ thương tích tạm thời hay vĩnh viễn, trước hay sau thời gian điều trị để định tội và định khung hình phạt. Trên thực tế đã có rất nhiều vụ án cùng tính chất và loại tội phạm nhưng mỗi điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán lại căn cứ vào kết luận giám định khác nhau và không ít trường hợp có dấu hiệu tiêu cực.

Đây là vấn đề còn vướng mắc đòi hỏi khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS phải giải quyết được tồn tại này. Có ý kiến cho rằng, nội dung này thuộc quy định của Luật giám định tư pháp (Luật GĐTP), Luật GĐTP phải quy định về giá trị của các kết luận giám định. Tuy nhiên, giám định nói chung hay giám định tư pháp nói riêng là một loại công việc thuần túy khoa học. Do đó, không thể đòi hỏi xác định được giá trị của các kết luận khoa học. Ví dụ, giám định tỷ lệ thương tích do giám định ở những thời điểm khác nhau lại trong trường hợp người bị hại bị thương tích nhiều ở phần mềm, sau 01 thời gian điều trị những thương tích phần mềm đã phục hồi thì rõ ràng kết luận giám định ở thời điểm mới bị thương tích khác nhiều so với thời điểm giám định mà thương tích đã phục hồi và khi cả hai kết luận giám định này đều đúng. Do đó, không thể quy định về giá trị của các kết luận giám định mà đây là vấn đề của Bộ luật TTHS.

4. Điều 10 Bộ luật TTHS quy định “xác định sự thật của vụ án” là một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình điều tra, truy tố và xét xử

 “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về  các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình là vô tội”.

Có thể nói, đây là một nguyên tắc lý tưởng nhưng các quy định trong nội dung của Bộ luật TTHS không bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế và bản thân nguyên tắc này cũng khó có tính khả thi, bởi vì:

(1) Khi đã quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng thì về tâm lý chung, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn tìm mọi cách hoàn thành trách nhiệm của mình trước. Điều này cũng dễ dẫn tới tâm lý trong một vụ án có những tình tiết buộc tội và có cả những tình tiết gỡ tội, vì trách nhiệm chứng minh tội phạm, tâm lý của điều tra viên, kiểm sát viên hay thẩm phán sẽ có xu hướng tập trung vào các chứng cứ buộc tội, kết hợp với các yếu tố về năng lực, kinh nghiệm, chủ quan thì sẽ dẫn tới việc không chú trọng, xem xét đúng mức và đầy đủ đến các chứng cứ xác định vô tội. Thực tiễn các vụ oan sai xảy ra từ trước đến nay đều không ngoài nguyên nhân này. Ngoài ra, về mặt pháp luật thì các quy định cụ thể trong Bộ luật TTHS cũng được quy định theo xu hướng tập trung để giúp cho người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện được trách nhiệm chứng minh tội phạm.

(2)  Bộ luật TTHS quy định “… Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình là vô tội”. Tuy nhiên, đã là quyền thì phải dành cơ chế cho bị can, bị cáo thực hiện quyền đó. Bởi lẽ, trong mối quan hệ bất bình đẳng giữa 01 bên là bị can, bị cáo với 01 bên là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được trang bị bởi quyền lực nhà nước thì các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự phải quy định làm sao để bị can, bị cáo thực hiện được “quyền” của mình. Mặc dù, Bộ luật TTHS có quy định về vai trò của Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát hoạt động điều tra nhưng lại đồng thời quy định Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Chính vì vậy, trong quá trình kiểm sát điều tra sẽ rất khó tách bạch giữa nhiệm kiểm sát với nhiệm vụ “chứng minh” tội phạm. Trong khi đó, quy định về luật sư, vai trò của luật sư bảo vệ cho bị can, bị cáo rất khó thực hiện được đúng trên thực tế.

Có ý kiến cho rằng, để chống bức cung, dùng nhục hình đối với bị can, bị cáo trong quá trình điều tra cần phải lắp camera trong phòng hỏi cung. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là giá trị pháp lý của các buổi hỏi cung có và không có camera, có ghi âm kèm cùng với hình ảnh quay camera? Thực tế một số vụ án xảy ra trường hợp bị bức cung, dùng nhục hình nhưng không phải mọi trường hợp bị bức cung, dùng nhục hình đều xảy ra ở phòng hỏi cung. Do đó, quan điểm của người viết bài này cho rằng lắp camera chỉ giải quyết phần ngọn của vấn đề. Giải pháp cơ bản và thiết yếu, lâu dài là phải phát triển hệ thống luật sư đủ mạnh để bảo đảm cho việc hỏi cung đều có luật sư tham dự.

Trên đây là một số suy nghĩ về những tồn tại, vướng mắc trong Bộ luật TTHS cần nghiên cứu để quy định phù hợp khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS./.

Th.S Nguyễn Thị Giang – Chuyên viên Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp

Tham khảo thêm các bài viết:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191