Trách nhiệm của Tòa án khi không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời?

Câu hỏi của khách hàng: Trách nhiệm của Tòa án khi không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời?

tòa án mà không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu hậu quả xảy ra thì tòa có phải chịu trách nhiệm không?


Luật sư Tư vấn Bộ luật tố tụng dân sự – Gọi 1900.0191

Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

1./ Thời điểm tư vấn: 25/12/2018

2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Tòa án

  • Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
  • Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017

3./ Luật sư trả lời Trách nhiệm của Tòa án khi không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời?

Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là quyền của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án dân sự. Khi nhận được yêu cầu, Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.

Căn cứ Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự thì thông thường việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án phải được dựa trên căn cứ là đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án dân sự.

Việc Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời nhất định, gồm: giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động; tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động.

Căn cứ Điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự, trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng như sau:

-Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.

-Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

+Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu;

+Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

+Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng.

Theo đó, trong trường hợp có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án mà Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi không có lý do chính đáng gây ra thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án có trách nhiệm bồi thường theo quy định.

Tuy nhiên, để được bồi thường, chủ thể có quyền cần phải làm văn bản yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Căn cứ Khoản 4 Điều 19 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì Nhà nước là chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng.

Trong trường hợp Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng có lý do chính đáng mà vẫn gây thiệt hại thì Tòa án (hay Nhà nước) không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trên.

Như vậy, trong trường hợp của bạn, trong trường hợp Tòa án không áp dụng biện pháp tạm thời theo yêu cầu của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án mà không có lý do chính đáng, gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp tạm thời hoặc người thứ ba thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Trường hợp còn lại, Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra.

Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191