Phân tích Tội hiếp dâm trẻ em

TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM (ĐIỀU 112)

Hiếp dâm trẻ em là hành vi của một người dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu với người dưới 16 tuổi.

Tội hiếp dâm trẻ em là tội phạm mới được quy định tại luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 10-5-1997, trên cơ sở tách một phần đoạn 2 khoản 1 và toàn bộ khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự chưa được sửa đổi vào ngày 10-5-1997 do yêu cầu của việc đấu tranh với tệ xâm phạm tình dục của trẻ em ngày càng nghiêm trọng thành Điều 112. Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản vẫn giữ lại các dấu hiệu, các tình tiết định khung hình phạt như Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, có bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn xét xử và tình hình phát triển của xã hội.

CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

Các dấu hiệu của tội hiếp dâm trẻ em về cơ bản tương tự như tội hiếp dâm mà nạn nhân không phải là trẻ em quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, vì nạn nhân là trẻ em nên có một vài dấu hiệu thuộc về phía nạn nhân không giống với trường hợp hiếp dâm mà nạn nhân không phải là trẻ em như : Đối với nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì phải xác định việc giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân, còn đối với nạn nhân dưới 13 tuổi thì dù nạn nhân có đồng ý hay không đồng ý giao cấu thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em.

Việc nhà làm luật quy định nạn nhân dưới 13 tuổi dù có đồng ý để người phạm tội  giao cấu thì hành vi giao cấu này vẫn bị coi là phạm tội hiếp dâm trẻ em xuất phát từ luận điểm : ở độ tuổi dưới 13 trẻ em còn hết sức non nớt, yếu ớt, chưa có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lôi kéo, rủ rê, mua chuộc, khó có thể tự vệ được, nên cần được bảo vệ một cách đặc biệt nhằm bảo đảm sự phát triển bình thường, lành mạnh của các em mà cần phải trừng trị thật nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm tình dục đối với các em.

Tuổi của nạn nhân (người bị hiếp) là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội hiếp dâm trẻ em. Việc xác định tuổi của người bị hại trên cơ sở giấy khai sinh của họ nếu trường hợp mất giấy khai sinh hoặc không có giấy khai sinh thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng tất cả các biện pháp có thể được, để xác định tuổi thật của người bị hại. Cuối cùng nếu không còn cách nào để xác định tuổi thật của người bị hại, thì theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, tuổi của người bị hại sẽ được xác định như sau : Nếu chỉ biết tháng và năm sinh thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó làm ngày sinh của người bị hại. Ví dụ : Chỉ biết người bị hại sinh vào tháng 5-1986, thì lấy ngày 1-5-1986 là ngày sinh của người bị hại ; nếu chỉ biết năm sinh mà không biết ngày tháng thì lấy ngày đầu của tháng đầu tiên trong năm đó làm ngày sinh của người bị hại để tính tuổi. Ví dụ : Chỉ biết người bị hại sinh năm 1985 thì lấy ngày 1-1-1985 là ngày sinh của người bị hại. Việc xác định ngày sinh của người bị hại theo cách trên là có lợi cho người phạm tội, nhưng chưa được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn nên thực tiễn xét xử còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều địa phương không đồng ý với cách xác định tuổi của người bị hại theo hướng có lợi cho ngươì phạm tội và cho rằng làm như vậy sẽ không cương quyết trừng trị người phạm tội  hiếp dâm trẻ em, trẻ em bị hiếp dâm cần phải bảo vệ đặc biệt. Hy vọng rằng các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần xúc tiến ngay việc hướng dẫn cách tính tuổi của người bị hại trong trường hợp không có giấy khai sinh hoặc các giấy tờ có ý nghĩa xác định tuôỉ của người bị hại. Bởi vì vấn đề này có ý nghĩa vô cùng quan trọng liên quan đến mức hình phạt của người phạm tội. Ví dụ : nếu nạn nhân bị hiếp dâm tròn 13 tuổi nếu không có các tình tiết quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù, nhưng nếu nạn nhân thiếu một ngày mới tròn 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

B – CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ :

  1. Hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi ( khoản 1 Điều 112)

Trong trường hợp chỉ có một người hiếp một người mà nạn nhân đã đủ 13 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi và không có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 112 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. Việc xác định trường hợp phạm tội này chủ yếu là xác định tuổi của người bị hại.

 

  1. Hiếp dâm trẻ em có tính chất loạn luân ( điểm a khoản 2 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự về tội hiếp dâm đã nghiên cứu ở trên, chỉ khác ở chỗ người bị hiếp trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Vấn đề đặt ra là, vậy người bị hiếp dưới 13 tuổi, đồng thời lại có tính chất loạn luân thì có cần xác định phạm tội có tính chất loạn luân và áp dụng điểm a khoản 2 Điều 112 không, hay chỉ áp dụng khoản 4 Điều 112?. Đặt vấn đề như vậy là xuất phát từ thực tiễn xét xử đã có không ít trường hợp Toà án chỉ căn cứ vào các tình tiết quy định ở khung hình phạt nặng hơn và bỏ qua các tình tiết quy định ở khung hình phạt nhẹ hơn vì cho rằng việc xác định các tình tiết quy định ở khung hình phạt nhẹ hơn không còn có ý nghĩa nữa. Ví dụ : Một người phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi và phạm tội có những tình tiết như: có tính chất loạn luân; phạm tội nhiều lần; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.v.v… nhưng Toà án chỉ xác định người phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi mà không đề cập đến các tình tiết khác vì cho rằng, người phạm tội đã bị áp dụng khoản 4 Điều 112 rồi, nên việc xác định các tình tiết khác không còn ý nghĩa nữa. Theo chúng tôi, cách đặt vấn đề như vậy là không toàn diện, vì việc xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án là một nguyên tắc và ngay cả trong trường hợp người phạm tội đã được xác định thuộc trường hợp phải áp dụng khung hình phạt nặng nhất thì cũng không vì thế mà bỏ qua các tình tiết được quy định ở khung hình phạt nhẹ hơn. Nếu chúng ta xác định đầy đủ các tình tiết thì việc quyết định một hình phạt cụ thể cho người phạm tội sẽ chính xác hơn. Tuy nhiên, nếu một người phạm tội có nhiều tình tiết, trong đó có tình tiết được quy định ở khung hình phạt nhẹ, có tình tiết được quy định ở khung hình phạt nặng thì Toà án chỉ áp dụng khung hình phạt nặng để quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Ví dụ : Đào Văn T phạm tội hiếp dâm trẻ em, vừa có tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự  vừa có tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự  thì Toà án chỉ áp dụng khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với Đào Văn T.

  1. Hiếp dâm trẻ em làm nạn nhân có thai ( điểm b khoản 2 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội làm nạn nhân có thai quy định tại điểm g khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự đối với tội hiếp dâm chúng ta đã nghiên cứu ở trên, chỉ khác một điểm là nạn nhân có thai trong trường hợp này là trẻ em dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, khi xác định nạn nhân có thai trong trường hợp phạm tội này cần chú ý thời điểm có thai đối với nạn nhân bị hiếp dâm nhiều lần, trong đó có hai lần nạn nhân chưa đủ 16 tuổi, có lần nạn nhân đã đủ 16 tuổi và lần có thai lại là lần nạn nhân đã đủ 16 tuổi thì không thuộc trường hợp hiếp dâm trẻ em làm nạn nhân có thai mà thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm c khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ( điểm c khoản 2 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm h khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp phạm tội này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì đều thuộc trường hợp phạm tội quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và tình tiết gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân chỉ còn là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt chứ không phải tình tiết định khung hình phạt nữa. Tuy nhiên các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải xác định tình tiết này khi giải quyết vụ án.

  1. Hiếp dâm trẻ em mà nạn nhân là người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh ( điểm d khoản 2 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân chưa đủ 13 tuổi thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và tình tiết phạm tội này chỉ là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt chứ không còn là tình tiết định khung hình phạt nữa.

  1. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm ( điểm đ khoản 2 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm 1 khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự chúng ta đã nghiên cứu ở trên, các dấu hiệu để xác định trường hợp tái phạm nguy hiểm trong mọi trường hợp đều như nhau, vì đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội.

Phạm tội hiếp dâm trẻ em thuộc một trong các tình tiết : Có tính chất loạn luân ; làm nạn nhân có thai ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; tái phạm nguy hiểm, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự  có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm tù. So với  khoản 2 Điều 112a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 112 phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 112

  1. Hiếp dâm trẻ em có tổ chức ( điểm a khoản 3 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự trường hợp phạm tội hiếp dâm có tổ chức quy định tại điểm a khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự chúng ta đã nghiên cứu ở trên, chỉ có khác ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là khoản 3. Như vậy cũng là hiếp dâm có tổ chức, nhưng nạn nhân càng it tuổi thì hình phạt đối với người phạm tội lại cáo cao. Nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì cũng như các trường hợp phạm tội trên, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự, còn tình tiết có tổ chức chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt. Nếu phạm tội hiếp dâm trẻ em có tổ chức mà nạn nhân lại chưa đủ 13 tuổi thì hình phạt đối với người phạm tội sẽ phải nặng hơn trường hợp nạn nhân đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

  1. Nhiều người hiếp một người mà nạn nhân là trẻ em ( điểm b khoản 3 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội nhiều người hiếp một người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân là trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là khoản 3. Nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và bị xử phạt rất nghiêm khắc.

 

  1. Nhiều lần hiếp dâm trẻ em ( điểm c khoản 3 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm d khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này nạn nhân bị hiếp là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là khoản 3.  Nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và ngươì phạm tội sẽ bị xử phạt rất nghiêm khắc.

Khi xác định tình tiết nhiều lần hiếp dâm trẻ em cần chú ý một điểm là: Phải có từ hai lần hiếp dâm trở lên mà các lần đó nạn nhân đều dưới 16 tuổi, nếu chỉ có một lần nạn nhân bị hiếp là dưới 16 tuổi còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi thì không thuộc trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em nhiều lần. Tuy nhiên, trường hợp nhiều lần hiếp dâm một người, nhưng chỉ có một lần nạn nhân dưới 16 tuổi còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi, vậy trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được xác định như thế nào?  Vấn đề này cho đến nay cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đang tồn tại các ý kiến khác nhau :

Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu phạm tội hiếp dâm nhiều lần trong đó có một lần nạn nhân chưa đủ 16 tuổi còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em không có tình tiết phạm tội nhiều lần.

Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ cần truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội hiếp dâm có tình tiết phạm tội nhiều lần theo điểm d khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự.

Quan điểm thứ ba cho rằng cần truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về hai tội : Tội hiếp dâm theo Điều 111 và tội hiếp dâm trẻ em theo Điều 112 Bộ luật hình sự vì người phạm tội có hai hành vi phạm tội vào hai thời điểm khác nhau, tuy cùng xâm phạm đến một người bị hại .

Có thể còn ý kiến khác, nhưng theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi hiếp dâm về một tội còn cụ thể tội nào cần phân biệt một số trường hợp sau:

Nếu người phạm tội hiếp dâm nhiều lần, trong đó chỉ có một lần nạn nhân chưa đủ 16 tuổi, còn các lần khác nạn nhân đã đủ 16 tuổi thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo điểm d khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự với tình tiết “phạm tội nhiều lần”.

Nếu người phạm tội hiếp dâm nhiều lần, trong đó có từ hai lần trở lên nạn nhân chưa đủ 16 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo điểm c khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự vì có tình tiết “Phạm tội nhiều lần”.

  1. Hiếp dâm nhiều trẻ em ( điểm d khoản 3 Điều 112 )

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và khung hình phạt không phải là khoản 2 của điều luật mà là khoản 3. Nếu nạn nhân chưa đủ 13 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên ( điểm đ khoản 3 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm a khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân chưa đủ 13 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội ( điểm e khoản 3 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm b khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân chưa đủ 13 thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.

  1. Hiếp dâm trẻ em làm nạn nhân chết hoặc tự sát ( điểm g khoản 3 Điều 112)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm c khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, chỉ có khác là nạn nhân trong trường hợp này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân chưa đủ 13 tuổi thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự .

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Hiếp dâm có tổ chức; nhiều người hiếp một người; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự và bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. So với khoản 3 Điều 112a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

  1. Hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi ( khoản 4 Điều 112)

Trường hợp hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi được luật pháp quy định như là một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không cần hội tụ đủ các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm thông thường, người có hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi vẫn bị coi là phạm tội hiếp dâm. Vì vậy, khi Bộ luật hình sự năm 1985 chưa được sửa đổi, bổ sung cũng đã quy định “mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm”, tức là không cần dấu hiệu “trái với ý muốn của nạn nhân” như các trường hợp hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi trở lên. Tinh thần này được quán triệt và khẳng định lại một lần nữa tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với tội hiếp dâm trẻ em “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm”. Tuy nhiên, về khung hình phạt không còn nghiêm khắc hơn trước mà quy định người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Việc quy định này là phù hợp với thực tiẽn xét xử, vì có trường hợp tuy xét về hành vi thì dã cấu thành tội hiếp dâm, nhưng về hậu quả cũng như các mặt tác hại khác lại không đáng kể, nếu phạt người phạm tội mức hình phạt hai mươi năm (mức thấp nhất của khung hình phạt theo khoản 4 Điều 112a Bộ luật hình sự năm 1985) thì không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Thấy rõ được sự bất hợp lý này, nên Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định khung hình phạt dài hơn, có mức thấp nhất là mười hai năm. So với khoản 4 Điều 112a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nên những hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Việc xác định trường hợp phạm tội này chủ yếu là xác định tuổi của nạn nhân và việc xác định tuổi của nạn nhân như trên chúng ta đã nghiên cứu đang là vấn đề cần phải giải thích hoặc hướng dẫn một cách thống nhất.

Khi áp dụng khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự cũng cần phải chú ý một số điểm sau :

So với khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự thì khoản 4 Điều 112 có khung hình bằng nhau. Nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt dễ cho rằng hành vi hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi cũng như hành vi hiếp dâm trẻ em trên 13 tuổi, sẽ dẫn đến sự nhận thức không đúng khi áp dụng khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự. Do đó nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự mà không có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều 112 Bộ luật hình sự thì người phạm tội có thể chỉ bị phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm tù, nhưng nếu có tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự thì có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình. Vì thế khi đã xác định người phạm tội hiếp dâm trẻ em thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự thì đồng thời phải xác định người phạm tội có các tình tiết quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều 112 không ? trên cơ sở đó mà quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu người phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi lại có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều 112 Bộ luật hình sự thì chắc chắn mức hình phạt không thể như trường hợp phạm tội không có tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3.

Người phạm tội hiếp dâm trẻ em còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm ( khoản 5 Điều 112)

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191