Phân tích Tội trộm cắp tài sản

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN (ĐIỀU 138)

Cũng tương tự như đối với tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, điều văn của điều luật không mô tả hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì trộm cắp tài sản   là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự mất cảnh giác của người quản lý tài sản để lấy tài sản mà người quản lý tài sản không hề biết. Ví dụ: Đào Văn T theo dõi thấy anh Vũ Thế Đ để xe máy ở vỉa hè vào Bưu điện nhận bưu phẩm, T đã dùng chìa khoá vạn năng mở được xe và nổ máy phóng đi. Khi anh Đ ra thì thấy xe đã bị mất. Vì vậy, có thể định nghĩa tội trộm cắp tài sản như sau:

Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác

Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biét mình bị mất tài sản, chỉ sau khi mất tài sản họ mới biêt bị mất tài sản.

Tính chất lén lút (bí mật) của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội của mình. Lén lút, đối lập với công khai trắng trợn. Tuy nhiên, lén lút không phải đặc trưng duy nhất của tội trôm cắp tài sản, mà trong nhiều tội phạm người phạm tội cũng lén lút nhưng là để thực hiện một mục đích khác như: Lẻn vào nhà ngừơi khác để đặt mìn nhằm mục đích giết hại những người trong gia đình họ, lẻn vào phòng ngủ của phụ nữ để thực hiện hành vi hiếp dâm. v.v… Vì vậy, khi nói đến tội trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là trộm cắp tài sản. Có thể nói, trộm cắp là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút.

So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội; phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử lý về hình sự; đây cũng là điểm khác biệt cơ bản so với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này. Về hình phạt, Điều 138 quy định nặng hơn Điều 155 và nhẹ hơn  Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1985  ( Điều 132 quy định là tử hình, còn Điều 155 là hai mươi năm tù).

Về cơ cấu, tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự được cấu tạo thành 5 khoản ( Điều 132 và 155 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội này chỉ có 3 khoản ). Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (nhẹ hơn khoản 1 Điều 132 và nặng hơn khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 2 có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm (nhẹ hơn khoản 2 Điều 132 và nặng hơn khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 3 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm ( nhẹ hơn cả khoản 3 Điều 132 và khoản 3 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985); khoản 4 có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân (là khung hình phạt mới mà Điều 132 và Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định)

Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể chứng kiến rất nhiều hành vi trộm cắp như: trộm cắp ở bến tầu, bến xe, nhà ga, khách sạn, trong chợ, ngoài đường, trộm đêm, trộm ngày, trộm trên các phương tiện giao thông… ở đâu, lúc nào cũng có thể xảy ra hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều trường hợp dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác, có khi chúng ta xác định hành vi đó là tội trộm cắp, nhưng lại không phải, ngược lại có trường hợp được xác định không phải là hành vi trộm cắp nhưng lại đúng là trộm cắp. Đối với các trường hợp này thường nhầm với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản. Để xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội phạm khác gần kề, chúng ta nghiên cứu một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù sau:

– Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện đã lến lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Ví dụ: Bùi Văn D đóng giả Bộ đội vào ngủ nhờ nhà ông Đinh Văn T, ông T tưởng D là bộ đội thật nên cho ngủ. Đến 12 giờ đêm, D thức giấc thấy mọi người trong nhà dã ngủ say, D đã lục tủ lấy được 5.000.000 đồng và một lượng vàng rồi lấy luôn cả chiếc xe đạp của gia đình ông T giắt ra khỏi nhà, nhưng D đạp xe ra tới cổng làng thì bị tổ tuần tra bắt quả tang cùng với tang vật.

– Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn, xô đẩy để chiếm đoạt tài sản của người khác. Ví dụ: Nguyễn Văn N và một số tên khác thường đến các bến tàu, bến xe để hoạt động phạm tội. Một hôm, N và đồng bọn đến Nhà ga thành phố H, thấy cửa bán vé tàu đi tỉnh B có nhiều người xếp hàng mua vé đang chen lẫn, xô đẩy; N bàn với đồng bọn giả vờ là hành khách vào chen lẫn, xô đẩy rồi lén giật đồng hồ của anh Hoàng Công Kh rơi xuống đất để đồng bọn nhặt. Do mải chen lấn, xô đẩy nên anh Kh không biết ai giật đồng hồ của mình. Nếu chỉ căn cứ vào hành vi thì trường hợp phạm tội này sẽ được xác định là cướp giật tài sản, nhưng căn cứ vào thủ đoạn phạm tội và hoàn cảnh thực tế lúc xảy ra tội phạm thì lại là hành vi trộm cấp tài sản vì N và đồng bọn không có ý thức công khai chiếm đoạt đồng hồ của anh Kh, chúng chỉ lợi dụng sự chen lấn, xô đẩy để lén giật đồng hồ và chúng tin rằng anh Kh không thể phát hiện được; thực tế anh Kh cũng không biết ai đã giật đồng hồ của mình.

– Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công cộng), nên đã chiếm đoạt. Ví dụ: Trịnh Hoài Đ, Vũ Công C và Đặng Quang P đã bàn với nhau cải trang là nhân viên của Công ty cung ứng điện, dùng các dụng cụ cách điện, trong một thời gian 20 ngày chúng đã tháo được 150 chiếc Công tơ (đồng hồ đo điện). Trường hợp phạm tội này, nếu chỉ căn cứ vào hình thức chiếm đoạt thì có thể xác định hành vi của Đ, C và P là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, vì lúc thực hiện tội phạm chúng không hề che giấu hành vi của mình, nhiều người nhìn thấy chúng tháo Công tơ nhưng không ai nghi ngờ vì cứ tưởng chúng là nhân viên của Công ty điện. Tuy nhiên, tính chất lén lút của hành vi lại thể hiện ở chỗ chúng che giấu thân phận thật của mình với mọi người xung quanh và người quản lý tài sản.

Hậu quả

Tương tự như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, hậu quả của tội trộm cắp tài sản cũng là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Nói chung, tài sản bị chiếm đoạt do hành vi trộm cắp gây ra là tiền các loại, hàng hoá và các giấy tờ có giá trị thanh toán như phiếu công trái, ngân phiếu.sở hữu Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp người bị hại không bị mất tài sản mà chỉ mất các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản như: giấy chứng nhận đăng ký xe máy, xe ôtô; giấy chứng nhận quyền sở hữu về nhà ở; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.v.v…Các trường hợp này, thông thường người phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp nhưng không biết tài sản mà mình định trộm cắp là bao nhiêu, gồm những loại tài sản nào như: trộm cắp túi xách, ví (bóp)… nhưng sau khi kiểm tra không có tiền hoặc tài sản có giá trị mà chỉ có các giấy tờ trên. Có trường hợp người phạm tội tìm cách bắt người bị hại phải chuộc lại các giấy tờ này với số tiền rất lớn. Vậy các loại giấy tờ trên, có coi là tài sản ( đối tượng tác động của hành vi trộm cắp hay không ? Trước hết, cần khẳng định rằng, các giấy tờ trên, dù có thể đem bán, đêm trao đổi với giá trị lớn nhưng không thể coi đó là tài sản, nó chỉ là giấy tờ chứng nhận về tài sản nên nó không phải là đối tượng tác động của hành vi trộm cắp, nếu người phạm tội chỉ có ý định trộm cắp các loại giấy tờ trên để thực hiện một mục đích khác thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng giấy tờ đó vào mục đích của họ. Ví dụ: Phạm B dã bán nhà cho chị Nguyễn Thị H, nhưng B lại tìm cách trộm cắp lại giấy tờ nhà để dùng bộ giấy tờ này thế chấp Ngân hàng vay tiền, thì hành vi của B không phải là hành vi trộm cắp tài sản của chị H mà là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng.

Mặc dù, khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản ( người phạm tội chiếm đoạt được tài sản ) thì mới cấu thành tội phạm. Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng là để áp dụng trong những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị không lớn như xe đạp cũ, quần áo, dầy dép, con gà, con vịt, một ít cá, tôm.v.v…Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội trộm cắp  tài sản, nhưng là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 500.000 đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được thì chưa cấu thành tội trộm cắp tài sản, vì dù có chiếm đoạt được cũng chưa cấu thành tội phạm huống hồ chưa chiếm đoạt được. Tuy nhiên, có vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử cần phải bàn là, vậy trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 và chưa chiếm đoạt được nhưng lại thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích thì đã cấu thành tội phạm chưa ? Về nguyên tắc (trừ trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng vì hậu quả nghiêm trọng là hậu quả của việc mất 500.000 đồng nhưng chưa mất thì không thể nói gây hậu quả nghiêm trọng được), còn hai trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, mà chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của người phạm tội cũng đã cấu thành tội trộm cắp rồi, nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nếu mới chuẩn bị phạm tội thì chưa cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, về đường lối xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ mà quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội hay không. Theo chúng tôi chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án nhiều lần về tội chiếm đoạt, hoặc họ là phần tử nguy hiểm, là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: Uông Sĩ T là tên đã có nhiều tiền án tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản, vừa ra tù T  đã cấu kết với một số thanh niên trong thôn tổ chức đánh bạc và bắt gà của nhân dân ở thôn xóm đem về làm thịt ăn với nhau, nhân dân phản ảnh nhưng Công an xã chưa bắt được quả tang vì bọn chúng rất xảo quyệt. Với sự hỗ trợ của Công an huyện, nên đã bố trí bắt gọn Uông Sĩ T và đồng bọn đang chui vào chuồng gà của gia định ông Đinh Viết Đ để trộm gà. Mặc dù hành vi trộm cắp của T và đồng bọn chưa gây thiết hại về tài sản ( gà chưa bị mất) và giá trị tài sản mà chúng định chiếm đoạt cũng chưa tới 500.000 đồng, vì chuồng gà nhà Đ chỉ có 4 con gà giá trị khoảng 200.000 đồng, nhưng với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi và nhân thân của T nên viẹc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T về tội trộm cắp là cần thiết.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu mục đich đó không cấu thành một tội phạm độc lập. Ví dụ: M cùng công tác với H ở Công ty X và cùng yêu chị L, nhưng chị L chưa nhận lời yêu ai, M cho rằng H là lực cản để M đến với chị L, nên M đã trả thù H bằng cách xúi dục D và V là những tên trộm cắp chuyên nghiệp lấy trộm xe của H, nhưng không đòi D và V phải chia tiền bán xe cho M.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội trộm cắp tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản. So với tội  trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nhưng nhẹ hơn khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; đối với hành vi trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000  mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì được áp dụng Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 để điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội.

Cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tình tiết là yếu tố định tội mà nhà làm luật mới quy định, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính, Vì vậy, khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội này cần chú ý:

– Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là giá thị trường tự do vào thời điểm xảy ra tội phạm, trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

– Công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 500.000 đồng gây hậu qủa nghiêm trọng là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội mà đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội. Cho đến nay, chưa có hướng nào về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chiếm đoạt gây ra. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, qua thực tiễn xét xử, có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả nghiêm trọng của hành vi trộm cắp tài sản:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 40%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả mọi người từ 21% đến 40%;

– Gây thiệt hại về tải sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

– Ngoài thiệt hại về sức khoẻ, tài sản, còn những thiệt hại khác như gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang cho nhân dân trong một địa bàn nhất định…Những thiệt hại này, tuỳ từng vụ án cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định đã là hậu quả nghiêm trọng chưa.

– Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi trộm cắp, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về hành vi chiếm đoạt tài sản bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản , người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội có tính chất chiếm đoạt nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội chiếm đoạt) thì cũng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự;

Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi mà thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản; tài sản bị chiếm đoạt càng nhiều, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này18. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể phạt dưới sáu tháng tù (nhưng không được dưới 3 tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến hình phạt thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo; nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo.

  1. Trộm cắp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự

Trộm cắp tài sản có tổ chức

Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, trộm cắp tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ trộm cắp tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm  tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên phạm tội trộm cắp tài sản có tổ chức cũng có những đắc điểm riêng như:

Người thực hành trong vụ trộm cắp tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Thực tiễn xét xử có những trường hợp dễ nhầm lẫn giữa người giúp sức với người thực hành. Ví dụ: A là thủ kho thông đồng với B về việc trộm cắp tài sản trong kho do A quản lý. Chúng thống nhất kế hoạch, A giả vờ quên khoá kho để B vào kho lấy tài sản. Trong trường hợp này A không phải là người thực hành mà chỉ là người giúp sức.

Trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định trong Bộ luật hình sự, tức là người phạm tội lấy việc trộm cắp tài sản là phương tiện sinh sống chính của mình. Nói chung, trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp thường được thực hiện có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp chỉ một hoặc hai người chuyên trộm cắp tài sản nhưng chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường.

Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nói chung, phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng, nhất thiết người thực hành phải thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần ( tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội tuy có lấy việc phạm tội là phương tiện sống, nhưng chỉ trộm cắp tài sản một lần còn những lần phạm tội khác không phải là trộm cắp tài sản thì cũng không phải là trọm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết định khung hình phạt, mà chỉ là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự

Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm

Trường hợp phạm tội này lại hoàn toàn giống với tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt

Nếu trong các cấu thành của các tội chiếm đoạt được thực hiện bằng hình thức công khai trắng trợn, nhà làm luật không quy định tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt là tình tiết định khung tăng nặng, thì đối với các tội chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, bí mật nhà làm luật lại quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt.

Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiẹn hành vi trộm cắp là người phạm tội có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng. Ví dụ: N và H yêu nhau, nhưng nhà H giầu có, nhiều lần N vay tiền của H để tiêu xài hoang phí, H đã góp ý cho N, nhưng N không tiếp thu mà còn bàn với Q là tên đã có nhiều tiền án tiền sự trộm cắp xe máy của H bán lấy tiền tiêu xài. Q đồng ý và bàn với N rủ H đi xe bằng xe máy của H đến đê sông Hồng tâm sự để tạo điều kiện cho Q trộm xe máy của H.

Dùng thủ đoạn nguy hiểm

Dùng thủ đoạn nguy hiểm để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là trường hợp người phạm tội đã có những thủ đoạn gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như: Dùng hoá chất hoặc thuốc trừ sâu, diệt chuột đổ xuống ao, hồ để bắt trộm cá chết nổi gây ô nhiễm nguồn nước sạch gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của nhiều người.

Hành hung để tẩu thoát

Đây là trường hợp sau khi đã trộm được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc những người khác, nhưng hành vi dùng vũ lực chưa gây ra thương tích hoặc nếu đã gây ra thương tích thì tỷ lệ thương tật chưa đến 11%, nếu tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên, thì tuỳ thuộc vào mức tỷ lệ thương tật, mà người phạm tội còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Khi xác định trường hợp phạm tội này, cần phân biệt với người phạm tội hành hung không nhằm mục đích tẩu thoát mà nhằm giữ bằng được tài sản. Nếu người phạm tội sau khi đã trộm được tài sản, bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt nhưng cố tình giữ tài sản bằng cách hành hung người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản (đầu trộm đuôi cướp). Ví dụ: Vũ Quốc H lẻn vào nhà chị Hoàng Kim D ở khu tập thể trộm được một chiếc máy tính xách tay, H vừa ra khỏi nhà chị D thì bị anh Vũ Thế Đ phát hiện đuổi bắt, khi anh Đ túm được tay H giằng lại chiếc máy vi tính thì bị H rút dao trong người ra đâm anh Đ một nhát vào tay, cố giữ bằng được chiếc máy dẻ bỏ chạy.

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng

Đây là trường hợp người phạm tội trộm cắp tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định trộm cắp tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm g khoản 2 Điều 133; điểm i khoản 2 Điều 134; điểm đ khoản 2 Điều 135; điểm h khoản 2 Điều 136; điểm d khoản 2 Điều 137, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả nghiêm trọng là do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 11% đến 30%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản bị chiếm đoạt ;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản gây ra, như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm  nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai năm tù), nếu là cải tạo không giam giữ thì không được dưới sáu tháng. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Trộm cắpt tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả rất nghiêm trọng là do hành vi phạm tội gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả rất nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả rất nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 31% đến 60%;

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội trộm cắp;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản gây ra, như: ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng rát xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới hai năm tù. Việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và phải đảm bảo đúng các quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

 

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

  1. Trộm cắp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm  e khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị trộm cắp trong trường hợp này có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp tương tự khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).

Mặc dù điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định trộm cắp tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, phi vật chất do hành vi trộm cắp gây ra. Nói chung, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi trộm cắp tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự, vì nó được quy định trong cùng một khung hình phạt với các tình tiết này.

Trộm cắp tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Căn cứ vào các quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự, qua thực tiến xét xử, có thể coi những thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản gây ra:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, không bao gồm các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mà người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc tội giết người.

– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ  500.000.000 đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội trộm cắp;

– Ngoài những thiệt hại về sức khoẻ hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi trộm cắp tài sản gây ra, như: ảnh hưởng đặc biệt xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho rất nhiều người ở nhiều địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.

Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

– Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Thiệt hại về tài sản, tinh thần càng lớn, hình phạt càng nặng và ngược lại;

– Người phạm tội bồi thường được càng nhiều tài sản bị chiếm đoạt thì mức hình phạt càng được giảm so với người phạm tội chỉ bồi thường hoặc chỉ bồi thường không đáng kể.

 

  1. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trộm cắp tài sản

Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội trộm cắp tài sản còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

So với tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 132 và tội trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều điểm được sửa đổi bổ sung.

Bỏ hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;

Hình phạt tiền là loại hình phạt mới được quy định đối với người phạm tội cướp giật tài sản, mức phạt tiền là từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Có thể coi đây là khung hình phạt tiền đối với người phạm tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội trộm cắp tài sản thì không được phạt trên năm mươi triệu đồng, nhưng nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì có thể phạt dưới năm triệu đồng nhưng không được dưới một triệu đồng vì theo quy định tại khoản 3 Điều 30 Bộ luật hình sự mức phạt tiền không được dưới một triệu đồng.

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191