Pháp luật thế giới về phạm vi chủ thể trong trách nhiệm sản phẩm

Trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng. Nó xuất phát trước tiên từ nghĩa vụ đương nhiên của người bán trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm bán ra cho người mua và trách nhiệm phát sinh khi không thực hiện đúng nghĩa vụ này.

Pháp luật thế giới về phạm vi chủ thể trong trách nhiệm sản phẩm

Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, khi người sản xuất không đồng thời đóng vai trò là người bán, trực tiếp thực hiện việc bán hàng cho người sử dụng và xuất hiện những khâu trung gian thực hiện hoạt động thương mại, loại trách nhiệm này dần tách khỏi nghĩa vụ hợp đồng và có những nội dung đặc thù riêng.

Pháp luật đa số các nước trên thế giới đều gọi chung loại trách nhiệm này theo một thuật ngữ, đó là “trách nhiệm sản phẩm”. Có thể nhận thấy rằng, xung quanh khái niệm này, xuất hiện nhiều khái niệm liên quan cũng như những vấn đề khác mà pháp luật Việt Nam còn quy định sơ sài, bất cập.

Chẳng hạn như nguyên lý xác định trách nhiệm, khái niệm trách nhiệm sản phẩm, phạm vi sản phẩm trong trách nhiệm sản phẩm, hàng hóa, hàng hóa khuyết tật, mức độ an toàn hợp lý, người tiêu dùng, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, chủ thể yêu cầu trách nhiệm sản phẩm, thời hiệu yêu cầu trách nhiệm bồi thường, các trường hợp miễn, giảm trách nhiệm bồi thường…

Phân tích các quy định hiện hành cho thấy, việc xác định trách nhiệm bồi thường của nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ có khuyết tật gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam chưa có một cơ sở lý luận chung về vấn đề này.

Các văn bản mới chỉ quy định sơ khai về trách nhiệm sản phẩm chứ chưa tạo ra một chế định pháp luật rõ ràng và còn rất ít những quy định giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh khi áp dụng trách nhiệm sản phẩm đối với nhà sản xuất để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Chính việc thiếu vắng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh đã làm cho pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng giảm đi mức độ ràng buộc về trách nhiệm của doanh nghiệp trong mối quan hệ với xã hội, với người tiêu dùng, giảm tính hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng.

Do vậy, có thể nói rằng, người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường tiêu dùng không an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng.

Thực trạng này đòi hỏi các nhà lập pháp Việt Nam phải xây dựng một cơ chế pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn nữa nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trình bày những quy định pháp luật các nước trên thế giới về phạm vi chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm và phạm vi chủ thể yêu cầu trách nhiệm sản phẩm, từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

1. Về phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu trách nhiệm sản phẩm

1.1. Pháp luật của các nước trên thế giới

Về nguyên tắc, chủ thể có quyền yêu cầu trách nhiệm sản phẩm là người tiêu dùng sản phẩm hàng hóa có khuyết tật và những người trực tiếp bị tác động bởi việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa có khuyết tật dù họ có thông qua thỏa thuận với nhà sản xuất hay không thì đều được quyền yêu cầu đòi bồi thường cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu do sản phẩm khuyết tật gây ra.

Vì trên thực tế, người bị thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật không chỉ có người tiêu dùng là người mua, người sử dụng sản phẩm, mà trong một số trường hợp lại là người không trực tiếp mua hoặc sử dụng sản phẩm. Và dù là tiêu dùng trực tiếp hay gián tiếp thì họ đều được gọi chung là người tiêu dùng và có quyền yêu cầu trách nhiệm sản phẩm. Xét dưới góc độ hành vi, người tiêu dùng có thể là người mua, người sử dụng (theo pháp luật Đức) hoặc bao gồm cả người được chào hàng (như Thái Lan).

Người mua không luôn luôn là người sử dụng duy nhất và cuối cùng, họ có thể chuyển giao quyền sử dụng hoặc có thể là quyền sở hữu cho một chủ thể khác. Xét dưới góc độ mục đích, người tiêu dùng thông thường là người sử dụng sản phẩm dùng cho sinh hoạt cá nhân, gia đình mà không phải là dùng cho mục đích phục vụ kinh doanh, sản xuất.

Như vậy, để xác định chủ thể có quyền yêu cầu trách nhiệm sản phẩm, việc chúng ta cần đó là làm rõ khái niệm người tiêu dùng là gì, bao gồm những ai? Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều khái niệm về người tiêu dùng, sau đây là những khái niệm phổ biến nhất:

Quan niệm chung trong hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban hành từ năm 1985 và đã được hiệu chỉnh vào năm 1999, khái niệm người tiêu dùng không được giải thích một cách rõ ràng.

Tuy nhiên, theo bản hướng dẫn này, người tiêu dùng sẽ được hưởng 8 quyền sau đây: Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn, quyền được lắng nghe, quyền được khiếu nại và bồi thường, quyền được giáo dục, đào tạo và tiêu dùng, quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.

Có thể thấy, nhìn tổng thể nội dung của 8 quyền, đây là những quyền mà chỉ chủ thể là cá nhân con người mới đầy đủ tư cách để thụ hưởng. Điều này cũng có thể được hiểu rằng, trong quan niệm của bản hướng dẫn vừa nêu trên, người tiêu dùng chỉ có thể được hiểu là cá nhân người tiêu dùng.

Liên minh Châu Âu (EU): Quan điểm về người tiêu dùng được thể hiện trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan. Theo Chỉ thị này thì: “Người tiêu dùng là bất cứ tự nhiên nhân (tức cá nhân) nào tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này… vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”.

Quan niệm này trước đó cũng đã từng được thể hiện trong phán quyết của Tòa Công lý Châu Âu (European Court of Justice) năm 1991 khi giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên.

Luật mẫu về bảo vệ người tiêu dùng quốc tế JOCU (International Organization of Consumer Union) thành lập ngày 01/04/1960 do 5 nước Anh, Hoa Kỳ, Hà Lan, Bỉ, Úc kí quyết định trong “Hội nghị quốc tế khuyến khích về thử nghiệm người tiêu dùng” tại LaHaye, đến năm 1985 đổi tên thành CI (Consumer International) thì: “Người tiêu dùng có nghĩa là người yêu cầu hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho những mục đích cá nhân trong gia đình hay nội trợ”.

Nhật Bản: Điều 2 (1) Luật về Hợp đồng tiêu dùng (tức là hợp đồng giao kết giữa người tiêu dùng với thương nhân) Nhật Bản năm 2000 giải thích rõ: “Người tiêu dùng theo quy định của của Luật này là cá nhân nhưng không bao gồm cá nhân tham gia hợp đồng với mục đích kinh doanh1”.

Canada: Luật Bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu được quy định trong các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng của các bang ở quốc gia này.

Trong các đạo luật này, người tiêu dùng chỉ được giải thích là các cá nhân. Chẳng hạn, Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Bang Quebec Điều 1 (e) giải thích rõ: “Người tiêu dùng là tự nhiên nhân (cá nhân) nhưng không phải là thương nhân mua sắm hàng hóa, dịch vụ cho mục đích kinh doanh của mình”(2). Luật về bảo vệ người tiêu dùng và các hành vi kinh doanh của Bang British Columbia tại Điều 1 cũng quy định: “Người tiêu dùng là tự nhiên nhân (cá nhân) tham gia giao dịch tiêu dùng…” tức là tham gia giao dịch mua sắm hàng hóa, dịch vụ với mục đích chủ yếu phục vụ nhu cầu của cá nhân hoặc nhu cầu sinh hoạt gia đình(3).

Trung Quốc: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 tuy không có điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng nhưng tại Điều 2 của Luật này lại quy định rằng: “Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ theo quy định của Luật này và trường hợp Luật này không quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy định khác có liên quan của pháp luật”.

Điều này đã ngụ ý, người tiêu dùng theo quan niệm của pháp luật Trung Quốc chỉ là cá nhân (mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu cầu sinh hoạt của mình chứ không phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt động nghề nghiệp).

Thái Lan: Theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng quy định: “Người tiêu dùng là người mua hay sử dụng dịch vụ của một nhà kinh doanh, kể cả những người được chào hàng hoặc được đề nghị mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ của nhà kinh doanh”. Về chủ thể có thể khởi kiện theo quy định của Luật: “Người chịu thiệt hại, mất mát do sản phẩm không an toàn là người được kiện để đòi quyền lợi cho mình”.

Ngoài các nước quy định người tiêu dùng là cá nhân ở trên, một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới mà trong pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của họ còn quy định người tiêu dùng bao gồm cả tổ chức. Trong số này phải kể đến Ấn Độ và Đài Loan (Trung Quốc).

Theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ ngày 24/12/1986, thì quan niệm người tiêu dùng là bất cứ người nào, có thể là doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội(4): Mua hàng hoặc thuê dịch vụ có trả tiền, đã thanh toán hoặc đã hứa thanh toán, hoặc đã thanh toán một phần và hứa thanh toán một phần, hoặc theo cách trả dần.

Khái niệm này không bao gồm người mua hàng hóa đó để bán lại hoặc vì các mục đích thương mại. Ở đây cũng nhấn mạnh tới hành vi thuê và mua bán mà ít chú trọng đến chủ thể sử dụng hàng hóa, dịch vụ có được coi là người tiêu dùng hay không.

1.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bên cạnh những quan điểm khác nhau giữa các quốc gia xoay quanh vấn đề khái niệm người tiêu dùng, chúng ta vẫn dễ dàng tìm thấy sự thống nhất quan trọng trong tất cả các khái niệm đó là mục đích mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, gia đình, không nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.

Nhìn chung, pháp luật của các nước trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển và các quốc gia khu vực ASEAN đều khá thống nhất với quan điểm người tiêu dùng chỉ bao gồm các cá nhân tiêu dùng mà không bao gồm các tổ chức.

Theo kinh nghiệm một số nước như EU, Canada, Malaysia…(5) do các tổ chức thường có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và có đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh nên Luật Bảo vệ người tiêu dùng không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ.

Tổ chức có những lợi thế như có hội đồng tư vấn, cơ chế đấu thầu, sự hỗ trợ của nhân viên kỹ thuật… điều mà các cá nhân tiêu dùng đơn lẻ hầu như không có được.

Ngay cả trong trường hợp người tham gia giao dịch là tổ chức, thì kết quả của giao dịch đó cũng có thể dẫn đến việc cá nhân mới thực sự là người tiêu dùng (chẳng hạn như doanh nghiệp mua thực phẩm về cho công nhân ăn trưa).

Ngoài ra, tổ chức khi tham gia vào các giao dịch thương mại đã được bảo vệ bởi các pháp luật hiện hành khác như: Pháp luật về thương mại, pháp luật doanh nghiệp và các quy định pháp luật chuyên ngành khác.

Với những quan điểm không thống nhất như vậy, nên hay không nên đưa tổ chức là chủ thể được bảo vệ của Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Trách nhiệm sản phẩm và nếu đưa vào thì cơ chế áp dụng so với cá nhân khác nhau như thế nào cũng là một vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu toàn diện và cụ thể hơn.

Học hỏi và nghiên cứu từ pháp luật của các quốc gia trên thế giới, đồng thời trên cơ sở những quy định của pháp luật Việt Nam, chúng tôi xin đưa ra những kiến nghị về phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu trách nhiệm sản phẩm như sau:

Thứ nhất, ở Việt Nam, khái niệm người tiêu dùng lần đầu tiên được quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và sau đó là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 tiếp tục kế thừa.

Theo đó, người tiêu dùng được hiểu là: “Người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Trong quy định này khái niệm người tiêu dùng không chỉ rõ người tiêu dùng chỉ là các cá nhân hay còn bao hàm cả các tổ chức với điều kiện việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ phải được sử dụng với mục đích tiêu dùng chứ không phải mục đích kinh doanh.

Có thể thấy, so với pháp luật của nhiều nước trên thế giới, thì phạm vi đối tượng người tiêu dùng cần được bảo vệ theo pháp luật Việt Nam đã được mở rộng hơn, không chỉ gói gọn ở lợi ích của các cá nhân, mà lợi ích của các tổ chức khi tham gia các giao dịch trên thị trường cũng được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên, cách quy định không rõ ràng này đã gây ra 2 cách hiểu khác nhau.

Đa số quan điểm đều thu hẹp chủ thể người tiêu dùng chỉ bao gồm cá nhân vì với gần 90 triệu người tiêu dùng là những cá nhân cần được bảo vệ, để có thêm điều kiện tập trung nguồn lực có hạn của Nhà nước Việt Nam cho việc bảo vệ nhóm người tiêu dùng yếu thế nhất và cần được bảo vệ nhất là cá nhân người tiêu dùng, Nhà nước khó có thể đủ nguồn lực để bảo vệ những người tiêu dùng là các tổ chức như cơ quan nhà nước, các cơ quan trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội nghề nghiệp cũng như hàng triệu hộ kinh doanh, hàng trăm ngàn các doanh nghiệp.

Quan điểm thứ hai thì cho rằng, nếu xét ở phương diện tiêu dùng, chỉ hiểu người tiêu dùng là cá nhân là hoàn toàn bất hợp lý.

Bởi trên thực tế, các tổ chức này cũng giống như các cá nhân đơn lẻ, họ cũng phải mua các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu để phục vụ cho các cán bộ, nhân viên của họ và các giá trị giao dịch giữa những đối tượng này với các nhà mua bán hàng hóa dịch vụ là tương đối lớn.

Không phải lúc nào các tổ chức cũng là đối tượng đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu Luật Bảo vệ người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác, thì quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.

Ví dụ: Trường mẫu giáo mua sữa về cho học sinh, nếu coi trường học không phải là người tiêu dùng thì trong trường hợp sữa gây ngộ độc, trường mẫu giáo có được bảo vệ hay không? Nếu theo quan điểm trên, người tiêu dùng đương nhiên được bảo vệ là các trẻ em bị ngộ độc và nhà trường thì là người cung cấp sản phẩm cuối cùng.

Tuy nhiên, thiệt hại về uy tín cũng như vật chất cho nhà trường cũng có, nếu không nói là quá lớn. Vậy, nhà trường sẽ có tư cách là người được yêu cầu bồi thường thiệt hại hay có tư cách là người phải bồi thường trách nhiệm sản phẩm cho các trẻ em bị ngộ độc? Hơn nữa, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép người nào bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi vi phạm pháp luật của người khác thì mới được quyền đứng ra khởi kiện người có hành vi vi phạm.

Điều này có nghĩa là, muốn đứng ra khởi kiện thay mặt người khác thì người khởi kiện phải có văn bản ủy quyền của người được thay mặt.

Vậy, trong trường hợp này, nhà trường có cần có văn bản ủy quyền từ gia đình các học sinh thì mới được đứng ra kiện thay hay không? Nếu không cho nhà trường được khởi kiện thay mà các gia đình kiện lần lượt khởi kiện thì sẽ giải quyết như thế nào? Vụ án sẽ kéo dài và rất phức tạp.

Tất cả những vấn đề đó, cần phải được quy định trong luật một cách đầy đủ và chi tiết. Con đường đơn giản để có những cơ chế phù hợp nhất đó chính là thừa nhận tổ chức cũng có tư cách là người tiêu dùng.

Thứ hai, người tiêu dùng có nhất thiết phải là người sử dụng sản phẩm vì mục đích tiêu dùng hay không? Trên thực tế, một cá nhân hay một tổ chức mua một loại hàng hóa hay sử dụng một loại dịch vụ vì mục đích thương mại hay mục đích tiêu dùng không phải là điều dễ xác định.

Chẳng hạn, một người nông dân mua thuốc trừ sâu để diệt sâu bệnh cho lúa, việc làm này của người nông dân là vì mục đích tiêu dùng hay mục đích sản xuất, họ có được coi là người tiêu dùng hay không thì luật cũng không quy định rõ. Hay một tổ chức mua thực phẩm về phục vụ cho công nhân ăn trưa, có quan điểm cho rằng chi phí ăn trưa nằm trong quá trình tái sản xuất sức lao động và phục vụ cho mục đích kinh doanh chung.

Ngược lại có quan điểm cho rằng, tổ chức đó mua thực phẩm về không có mục đích mua bán lại mà để tiêu dùng tại chỗ thì phải được coi là có mục đích tiêu dùng mới chính xác.

Như vậy, trên thực tế có thể có những cách giải thích khác nhau và dẫn đến cùng một giao dịch giống nhau nhưng có nơi sẽ coi là giao dịch tiêu dùng và áp dụng các biện pháp can thiệp như đối với người tiêu dùng và nơi khác lại không coi là giao dịch tiêu dùng.

Vì thế, chúng ta cần phải có những quy định rõ hơn về cụm từ“mục đích thương mại”, “mục đích tiêu dùng” để tránh những tình trạng trên.

Thứ ba, chủ thể yêu cầu bồi thường trách nhiệm sản phẩm trong nhiều trường hợp pháp luật nên mở rộng bao gồm cả những người thứ ba không trực tiếp sử dụng sản phẩm nhưng vẫn chịu tác hại từ khuyết tật của nó.

Đây là trường hợp mà sản phẩm có sự nguy hiểm ngay từ bên trong, chẳng hạn như thuốc lá.

Người hút thuốc là có thể ý thức được sự nguy hiểm do khói thuốc gây ra và họ tự mình chấp nhận những nguy cơ từ nó. Khi người sản xuất đã cảnh báo đầy đủ đối với người hút thuốc, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với sức khỏe của những người này, vì trường hợp này không coi là khuyết tật của sản phẩm gây thiệt hại.

Nhưng sẽ có rất nhiều người không trực tiếp hút thuốc vẫn phải chịu ảnh hưởng của khói thuốc (hút thuốc bị động). Liệu có thể yêu cầu nhà sản xuất thuốc lá phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại về sức khỏe của những người này không?

Đó cũng là một vấn đề đặt ra cho các nhà lập pháp Việt Nam khi xác định khuyết tật của sản phẩm. Để đảm bảo an toàn cho xã hội, chúng ta cũng nên cân nhắc quy định trách nhiệm của những nhà sản xuất đối với nạn nhân của hút thuốc lá bị động.

Thứ tư, về nguyên tắc, nhà sản xuất không phải chịu trách nhiệm về những thương tật do sản phẩm của mình gây ra trong trường hợp sản phẩm có thể có khuyết tật nhưng nếu khuyết tật ấy không gây ra thiệt hại hoặc không là nguyên nhân trực tiếp gây ra sự tổn thương cho người sử dụng, thì cũng không thể buộc lỗi về trách nhiệm sản phẩm cho người sản xuất.

Chỉ khi có thiệt hại thực tế và thiệt hại đó thực sự là do khuyết tật của sản phẩm gây ra, thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phạm vi trách nhiệm cũng sẽ nằm trong phạm vi, mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế gây ra bởi khuyết tật của sản phẩm đó.

Tuy nhiên, có một số sản phẩm không gây thiệt hại trực tiếp, rõ ràng cho người sử dụng mà có ảnh hưởng về lâu dài, ví dụ: Các thực phẩm, đồ dùng chứa chất gây ung thư có thể khiến người sử dụng các loại sản phẩm này bị nhiễm độc, ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng nếu sử dụng chúng trong một thời gian nhất định… Hiện nay, tại Việt Nam, đa số các vụ xâm hại quyền lợi người tiêu dùng đều rơi vào trường hợp này.

Chẳng hạn như chất 3-MCPD có khả năng gây ung thư nhưng để chứng minh một người bị ung thư có phải do 3-MCPD gây ra hay không thì rất khó. Vậy đối với những loại sản phẩm có khuyết tật gây thiệt hại tiềm ẩn, cũng phải có những cách giải quyết chế độ bồi thường sản phẩm cho phù hợp, cần bổ sung nhưng quy định về cách xác định khuyết tật đối với những sản phẩm kiểu này dựa trên các căn cứ khoa học và đối tượng được yêu cầu bồi thường là các quỹ dành cho cộng đồng (chẳng hạn như quỹ phòng chống ung thư).

2. Về phạm vi chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm

2.1. Pháp luật của các nước trên thế giới

Chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm là người sản xuất hoặc người bán hàng, tức phải là một chủ thể nhất định tham gia vào quy trình đưa một sản phẩm hàng hóa đến tay người tiêu dùng.

Chủ thể đó có thể có mối liên hệ trực tiếp với người tiêu dùng hoặc không có mối liên hệ trực tiếp.

Như vậy, về mặt nguyên tắc, trong bất kỳ trường hợp nào, đối với một sản phẩm xuất hiện trên thị trường luôn tồn tại chủ thể chịu trách nhiệm đối với sản phẩm này.

Xác định được chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm có ý nghĩa quan trọng và quyết định khi giải quyết vụ án liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Những phạm trù khái niệm còn lại của chế định trách nhiệm sản phẩm dù được quy định một cách chuẩn xác cũng sẽ trở lên vô nghĩa nếu không làm rõ được chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường và quyền lợi của người tiêu dùng cũng sẽ không được bảo vệ.

Nghiên cứu pháp luật các nước trên thế giới, có thể nhận thấy luật pháp các nước cũng có những quy định khác nhau về chủ thể phải chịu trách nhiệm trong những trường hợp khiếu nại về trách nhiệm sản phẩm. Có quốc gia quy định phạm vi chủ thể này khá rộng, nhưng cũng có những quốc gia quy định ở mức độ hẹp.

Liên minh Châu Âu (EU): Điều 3 Chỉ thị về trách nhiệm sản phẩm quy định khá rõ ràng về những chủ thể phải chịu trách nhiệm sản phẩm như sau:

– Nhà sản xuất là người sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh, là người sản xuất ra nguyên liệu thô hoặc là người sản xuất một bộ phận của sản phẩm hay bất cứ người nào, mà bằng cách đặt tên, nhãn hiệu hoặc bất cứ dấu hiệu nào khác xác nhận mình là người sản xuất ra sản phẩm đó;

– Nếu không tính đến trách nhiệm của nhà sản xuất thì bất cứ người nào nhập khẩu sản phẩm vào cộng đồng chung Châu Âu để bán, thuê, cho thuê hay bất cứ hình thức phân phối nào trong quá trình kinh doanh của người đó, thì được coi là nhà sản xuất trong khuôn khổ của Chỉ thị này và phải chịu trách nhiệm như người sản xuất;

– Khi không thể xác định được người sản xuất thì người phân phối sẽ phải chịu trách nhiệm như người sản xuất trừ khi người đó thông báo cho người bị thiệt hại trong thời gian hợp lý người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó hoặc người trực tiếp phân phối sản phẩm đó cho anh ta.

Như vậy, đối tượng áp dụng của pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Liên minh Châu Âu bao gồm người sản xuất, người nhập khẩu và người cung ứng sản phẩm.

Người bị thiệt hại có quyền khiếu nại bất cứ người nào trong bất cứ khâu nào của quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm. Phạm vi giới hạn này được thể hiện rất rõ trong một văn bản được coi là luật mẫu để các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu xây dựng các quy định của nội luật về trách nhiệm sản phẩm.

Theo bản Chỉ thị, chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm cũng được xem xét khá rộng rãi, vì thế một vụ kiện trách nhiệm sản phẩm tại Liên minh Châu Âu không chỉ chống lại nhà sản xuất thành phẩm cuối cùng, mà còn có thể chống lại các nhà sản xuất linh kiện bộ phận, nhà nhập khẩu, hoặc các chủ thể khác như nhà phân phối, nhà đại diện, nhà bán buôn, bán lẻ và đôi khi là người mua hoặc nhà tuyển dụng.

Italia và Tây Ban Nha: Trong trường hợp không xác định được người sản xuất và người nhập khẩu, người bị thiệt hại phải đưa ra đề nghị bằng văn bản gửi người cung ứng sản phẩm.

Nếu quá thời gian 3 tháng từ ngày nhận được đơn đề nghị mà người cung ứng không thể xác định được các thông tin về người sản xuất hay người nhập khẩu thì họ sẽ bị pháp luật trách nhiệm sản phẩm quy trách nhiệm như người sản xuất và người nhập khẩu.

Khoảng thời gian này ở pháp luật Anh lại không quy định cụ thể, mà đó là khoảng thời gian hợp lý, đủ để bên cung ứng xác định được thông tin về người sản xuất và người nhập khẩu.

Nhật Bản: Luật Trách nhiệm sản phẩm quy định tương đối hẹp về đối tượng áp dụng, theo đó chỉ có hai đối tượng chính chịu sự điều chỉnh của luật trách nhiệm sản phẩm là người sản xuất và người tương tự như người sản xuất.

Người sản xuất là những người tham gia sản xuất ra thành phẩm, chế biến nguyên liệu thô, người sản xuất bán thành phẩm, những người tham gia hoạt động chế biến, làm biến đổi sản phẩm.

Những đối tượng này không phụ thuộc vào việc sản xuất theo dây chuyền công nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất thủ công nhỏ lẻ miễn sao khi sản phẩm có khuyết tật, bán ra thị trường và người tiêu dùng bị thiệt hại, thì họ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.

Những người tương tự như người sản xuất là những người có sản phẩm mang tên mình, có thương hiệu của mình, hay bất cứ một dấu hiệu đặc trưng nào của mình thể hiện rằng mình là người sản xuất ra sản phẩm.

Thái Lan: Nhà kinh doanh là chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm theo quy định của luật này bao gồm: Nhà sản xuất hay gia công; nhà nhập khẩu; người bán một sản phẩm không xác định được nhà sản xuất, gia công hay nhà nhập khẩu; người sử dụng tên thương mại nhãn hiệu thương mại, nhãn hiệu, đồ vật hay bất kỳ phương tiện nào khiến cho người khác nghĩ rằng người đó là nhà sản xuất, gia công hay nhà nhập khẩu.

Luật này cũng khẳng định tất cả những người kinh doanh đều phải chịu trách nhiệm về những mất mát hay thiệt hại do sản phẩm không an toàn gây ra khi sản phẩm đó đã được bán cho người tiêu dùng, không kể là thiệt hại đó được gây ra do cố ý hay vô ý.

Hoa Kỳ: Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật hiện hành được áp dụng với các chủ thể sau:

– Các nhà sản xuất, phân phối, bán lẻ (hệ thống phân phối) phải chịu trách nhiệm với những thiệt hại do khuyết tật của hàng hóa gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó;

– Công ty nước ngoài trực tiếp kinh doanh tại Hoa Kỳ.

Cũng giống như các nước khác, đối tượng áp dụng của luật trước hết là người sản xuất, người phân phối (bao gồm người bán buôn, bán lẻ… và người nhập khẩu sản phẩm). Ngoài ra, công ty nước ngoài cũng có thể phải chịu sự xét xử của tòa án Hoa Kỳ ngay cả khi công ty không trực tiếp sản xuất, kinh doanh tại Hoa Kỳ nhưng chi nhánh của nó phân phối các sản phẩm có khuyết tật tại Hoa Kỳ, thì công ty đó vẫn có thể phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm có khuyết tật.

Đối tượng áp dụng của Luật Trách nhiệm sản phẩm Hoa Kỳ được mở rộng thêm khi quy định trách nhiệm của người trung gian.

Đó là những người có đủ chuyên môn nghiệp vụ để cảnh báo đầy đủ cho người sử dụng sản phẩm cuối cùng về sự nguy hiểm của sản phẩm và việc sản phẩm có khuyết tật.

Nếu có thể làm như vậy nhưng người trung gian không làm, thì người trung gian phải chịu trách nhiệm nếu thiệt hại phát sinh là kết quả của việc cảnh báo không đầy đủ. Trong trường hợp này người sản xuất, người bán hàng… được miễn trách.

Quan điểm về trách nhiệm của người trung gian xuất hiện đầu tiên trong Ngành Dược phẩm Hoa Kỳ và sau đó đã được phát triển và tinh lọc để bảo vệ quyền lợi của rất nhiều nhà sản xuất dược phẩm khi họ bán sản phẩm của mình tới những người trung gian là các bác sỹ hay dược sỹ. Vụ kiện điển hình về trách nhiệm của người trung gian chính là vụ kiện nhà sản xuất Norplant(6).

Trong trường hợp này, nguyên cáo là những nữ nạn nhân sử dụng một sản phẩm tránh thai bằng việc cấy các miếng film nhỏ tránh thai dưới tay.

Những mô cấy dưới da này bị phát hiện là gây ra rất nhiều các tác dụng phụ có hại tới phụ nữ. Họ đã khởi kiện nhà sản xuất Norplant nhưng nhà sản xuất này được miễn trách tại toà án sơ thẩm và phúc thẩm theo “Học thuyết trung gian” của Luật Trách nhiệm sản phẩm Hoa Kỳ.

Bởi theo “Học thuyết trung gian” thì các bác sỹ, những người thực hiện việc cấy ghép mô cho các phụ nữ này phải chịu trách nhiệm chuyển tải các thông điệp của nhà sản xuất về các tác dụng phụ có thể xảy ra khi cấy ghép mô, hơn nữa họ cũng có tránh nhiệm chỉ định việc dùng thuốc cho bệnh nhân. Nhưng những bác sỹ này đã không làm tròn trách nhiệm của mình, thì phải chịu trách nhiệm với thiệt hại xảy ra với người tiêu dùng.

2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Như vậy, quá trình đưa sản phẩm tới người tiêu dùng có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với vai trò là nhà cung cấp, trong đó có thể kể đến nhà sản xuất, người nhập khẩu, người phân phối và người bán hàng sỉ và lẻ.

Ngoài ra, trách nhiệm của người cung cấp linh kiện và người cung cấp sản phẩm cuối cùng cũng hết sức quan trọng. Đa số các nước trên thế giới đều đi theo hướng quy kết trách nhiệm sản phẩm cho những chủ thể này.

Một số nước thì quy định nhóm chủ thể này khá rộng (Hoa Kỳ) nhưng có những nước thì quy định khá hẹp (Nhật Bản).

Việc xác định ai phải chịu trách nhiệm sản phẩm sẽ giúp cho người tiêu dùng biết được chủ thể mình có thể kiện để yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu.

Theo quy định Điều 23, Điều 24 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam năm 2010, thì chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm bao gồm:

“… a) Tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa;

b) Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa;

c) Tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại cho phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa;

d) Tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa có khuyết tật cho người tiêu dùng trong trường hợp không xác định được tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại các điểm a, b và c khoản này”.

Nhìn chung, pháp luật Việt Nam cũng quy định đi theo những xu thế chung và học hỏi kinh nghiệm từ các hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở những quy định trên, chúng ta cũng nhận thấy sự thiếu vắng trong cơ chế giải quyết bồi thường trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam những trường hợp như hàng hóa đã được chuyển giao từ các nhà sản xuất; vấn đề liên đới bồi thường từ nhà sản xuất với các chủ thể khác trong chuỗi phân phối; nhà quảng cáo có trách nhiệm bồi thường sản phẩm nếu quảng cáo sai sự thật hay không, nhà phân phối sản phẩm chỉ phải bồi thường trong trường hợp không xác định được nhà sản xuất…?

Nếu nhà sản xuất hoàn toàn có thể xác định được nhưng rất xa về khoảng cách địa lý, thì người tiêu dùng có được yêu cầu trách nhiệm sản phẩm hay không?

Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ tối đa lợi ích của người tiêu dùng khi gặp thiệt hại do khuyết tật sản phẩm và với thực trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta hiện nay, pháp luật Việt Nam nên quy định theo hướng người tiêu dùng có thể lựa chọn kiện trách nhiệm sản phẩm bất kỳ ai trong chuỗi cung cấp sản phẩm, vì họ luôn ở những vị trí yếu thế hơn so với các nhà sản xuất, nhà cung cấp và cũng tránh trường hợp khi thiệt hại xảy ra nhà sản xuất đã không còn (phá sản, giải thể), thì quyền lợi của họ không thể được bảo vệ; trong trường hợp chủ thể phải bồi thường trách nhiệm sản phẩm không có lỗi (chẳng hạn như người bán phải bồi thường thiệt hại trong khi lỗi thuộc về nhà sản xuất) có thể khởi kiện tiếp theo yêu cầu bên có lỗi bồi hoàn.

Những chủ thể trong chuỗi cung cấp sản phẩm mà người tiêu dùng có thể lựa chọn làm đối tượng cho đơn kiện của mình là:

Thứ nhất, nhà sản xuất. Đối với sản phẩm nội địa, nhà sản xuất là những người trực tiếp tham gia vào quá trình thiết kế, chế biến và sản xuất ra sản phẩm, làm biến đổi sản phẩm, bao gồm: Người sản xuất thành phẩm, người sản xuất bán thành phẩm, người gia công, chế biến nguyên liệu thô hoặc trực tiếp tham gia vào một công đoạn nào đó của quá trình thiết kế, chế biến và sản xuất. Đối với sản phẩm ở nước ngoài, thì người nhập khẩu cũng sẽ được coi là nhà sản xuất.

Thứ hai, người tương tự như nhà sản xuất. Đây là những người có sản phẩm mang tên mình, gắn nhãn hiệu của mình, hay bất cứ một dấu hiệu đặc trưng nào của mình để thể hiện rằng mình là người sản xuất ra sản phẩm. Nếu nhà sản xuất hay nhập khẩu, người tương tự như nhà sản xuất phải bồi thường trách nhiệm sản phẩm chỉ ra được rằng, khuyết tật sản phẩm phát sinh không phải do lỗi của mình, mà có thể do lỗi của một chủ thể khác trong chuỗi phân phối thì có quyền yêu cầu bồi hoàn từ những chủ thể đó.

Thứ ba, người cung cấp linh kiện, bộ phận. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra một phần bởi một bộ phận trong sản phẩm, nhà sản xuất sản phẩm bộ phận và người thực hiện việc lắp rắp sản phẩm phải chịu trách nhiệm liên đới với nhà sản xuất thành phẩm.

Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn là do khuyết tật của bộ phận linh kiện đó và có đầy đủ căn cứ để xác định được nhà sản xuất linh kiện đó, thì người tiêu dùng có thể kiện nhà sản xuất linh kiện và nhà sản xuất linh kiện sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra.

Còn nếu không xác định được chủ thể sản xuất linh kiện, thì nhà sản xuất sản phẩm thành phẩm sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại toàn bộ cho người tiêu dùng và việc phân định trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm toàn bộ và người sản xuất linh kiện sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện khác.

Thứ tư, người phân phối sản phẩm, người cung cấp sản phẩm cuối cùng. Người phân phối sản phẩm là người đưa sản phẩm từ sản xuất vào lưu thông, bao gồm người bán hàng (người bán buôn, đại lý, bán lẻ…). Họ cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm không đảm bảo chất lượng hoặc không đảm bảo yêu cầu về an toàn. Khi không thể xác định được nhà sản xuất thì người phân phối, cung cấp sẽ phải chịu trách nhiệm như nhà sản xuất.

Còn khi có thể xác định nhà sản xuất mà người tiêu dùng yêu cầu bồi thường, họ vẫn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường và có thể yêu cầu hoàn lại một phần hoặc toàn bộ tùy thuộc vào mức độ lỗi từ phía nhà sản xuất.

Thứ năm, người vận chuyển, người quảng cáo. Người vận chuyển có trách nhiệm đảm bảo các yêu cầu, điều kiện vận chuyển từ phía nhà sản xuất. Ví dụ, sản phẩm thuốc cần phải được vận chuyển trong nhiệt độ bảo quản đông lạnh nhưng người vận chuyển lại cố tình không thực hiện đúng mà vận chuyển trong điều kiện thường để tiết kiệm chi phí. Nếu khuyết tật sản phẩm phát sinh do không đảm bảo yêu cầu về nhiệt độ bảo quản cho phép, thì người vận chuyển sẽ có trách nhiệm bồi thường sản phẩm liên đới với nhà sản xuất tùy thuộc vào mức độ lỗi.

Người quảng cáo là người quảng bá, giới thiệu thông tin… về sản phẩm trên báo đài, tờ rơi hoặc các phương tiện đại chúng khác. Người quảng cáo có thể đồng thời là nhà sản xuất nhưng cũng có thể là một chủ thể khác độc lập.

Nếu tổn hại của khách hàng xảy ra hoàn toàn hoặc một phần do sử dụng sản phẩm được quảng cáo phóng đại và sai sự thật trên các phương tiện thông tin đại chúng, thì nhà quảng cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường một phần hoặc toàn bộ cho các thương tổn đó.

Do đó, khi đưa ra bất kỳ một quảng cáo nào lên phương tiện công chúng, nhà quảng cáo cũng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự xác thực của các quảng cáo đó.

Thứ sáu, người trung gian. Người trung gian không phải là người sản xuất hay phân phối sản phẩm nhưng là người có chuyên môn và sự hiểu biết thỏa đáng để cảnh báo cho người tiêu dùng biết khả năng gây hại của sản phẩm. Nếu có thể làm như vậy nhưng người trung gian không làm, thì họ phải chịu trách nhiệm nếu thiệt hại phát sinh là kết quả của việc cảnh báo không đầy đủ.

Người trung gian trong pháp luật Việt Nam khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đang rất được quan tâm cũng nên quy định theo hướng mở rộng đối với cả các cơ quan đại diện Nhà nước do họ không làm tròn trách nhiệm của mình gây mất niềm tin trong nhân dân.

Trong trường hợp thiệt hại cho người tiêu dùng từ khuyết tật của sản phẩm nhưng có phần lỗi của cơ quan Nhà nước, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên có những quy định xác định trách nhiệm sản phẩm liên đới giữa Nhà nước và người sản xuất.

Vì rõ ràng cơ quan nhà nước có trách nhiệm và có khả năng để tính toán, dự báo, cung cấp thông tin, cấm phân phối những sản phẩm kém chất lượng đó trên thị trường nhưng họ lại tắc trách và không hoàn thành được nhiệm vụ của mình (trường hợp mũ bảo hiểm kém chất lượng được bày bán tràn lan công khai tại các vỉ hè khiến người tiêu dùng bị thiệt hại sức khỏe do mũ không có tác dụng bảo vệ).

Ngoài ra, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 cũng quy định thêm: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm:

a) Thương nhân theo quy định của Luật Thương mại;

b) Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh”.

Trong quy định này, chúng tôi cho rằng, không nên giới hạn những tổ chức chịu trách nhiệm sản phẩm phải là thương nhân, vì có rất nhiều tổ chức cũng cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng nhưng không phải là thương nhân trong khoản a như: Bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bệnh viện, trường học, văn phòng luật sư, văn phòng công chứng, nhà hát, rạp chiếu phim, bóng đá… mà cũng không là chủ thể cá nhân trong khoản b. Vậy cơ chế pháp lý nào để quy định trách nhiệm sản phẩm cho những đối tượng này khi họ gây thiệt hại cho người tiêu dùng?

Như vậy, nhờ có pháp luật về trách nhiệm sản phẩm, người tiêu dùng có sự bảo vệ về mặt pháp lý cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu khi tiêu dùng sản phẩm do lỗi của nhà sản xuất, người phân phối, người bán hàng. Đây cũng là động lực thúc đẩy các nhà sản xuất cho ra những sản phẩm an toàn hơn. Luật Trách nhiệm sản phẩm đã ra đời ở các nước phát triển từ rất sớm, thế nhưng ở Việt Nam, rất ít người hiểu rõ ràng về luật này. Vì vậy, việc ban hành đạo luật về trách nhiệm sản phẩm là điều vô cùng cấp thiết hiện nay

Tài liệu tham khảo:

(1).Xemhttp://unpan1.un.org/intradoc/groups/public/documents/apcity/unpan 023503.pdf.

(2).Xemhttp;//www.canlii.org/en/qc/laws/stat/rsq-c-p-40.1/latest/rsq-c40.1.html.

(3).http;//www.bclaws.ca/EPLibraries/bclaws_new/document/ID/freeside/04002_01.

(4).http://www.cgap.org/gm/document1.9.46004/CONSUMER%20PROTECTION%20ACT,%201986.pdf.

(5). Xem chi tiết Nghiên cứu: “So sánh luật bảo vệ người tiêu dùng một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản cho Dự thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam”.

(6).TheoJeffElliott,(1996),Norplantontrialtại:http://www.albionmonitor.com/controlled/bc-suits.html.

Nguyễn Minh Thư

Bài liên quan:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191