Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với Pháp luật về phá sản

Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với Pháp luật về phá sản.

Xử lý tài sản thế chấp vốn dĩ là công việc có tính phức tạp bởi nó có thể liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể cần phải được bảo vệ tại thời điểm mà bên có nghĩa vụ đã vi phạm nghĩa vụ.

Đặc biệt khi nhu cầu xử lý tài sản thế chấp lại có sự xung đột với nhu cầu cần tổ chức lại hoạt động của bên có nghĩa vụ phải trả nợ là một chủ thể có nguy cơ phá sản hoặc có sự xung đột về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên nhận thế chấp với các chủ thể khác cùng có quyền lợi đối với bên thế chấp khi giải quyết thủ tục phá sản.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ đi vào phân tích đặc trưng và mối quan hệ giữa các quy định về xử lý tài sản thế chấp với pháp luật về phá sản trong trường hợp con nợ không thể trả được nợ.

Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất lợi ích của các chủ thể có liên quan, qua đó thúc đẩy các giao dịch dân sự thương mại phát triển một cách an toàn và lành mạnh.

1. Mối quan hệ giữa pháp luật về xử lý tài sản thế chấp và pháp luật về phá sản

Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp và pháp luật về phá sản sẽ được áp dụng đồng thời nếu bên vay có thế chấp lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên, mục tiêu của hai chế định pháp luật này lại không tương đồng ở những điểm sau đây:

Mỗi chế định đều có những đòi hỏi, yêu cầu khác nhau đối với khoản nợ: Luật Phá sản đặt ra để giải quyết những khoản nợ không thể trả khi đến hạn, còn pháp luật về xử lý tài sản thế chấp khẳng định rằng, khoản nợ sẽ được trả dựa trên những tài sản thế chấp ngay cả khi hoạt động kinh doanh của con nợ không thể tiếp tục;

Mỗi chế định đều nỗ lực bảo vệ các quyền khác nhau: Luật Phá sản giải quyết nợ trên cơ sở xử lý đồng thời lợi ích của tất cả các chủ nợ với quyền bình đẳng như nhau; trong khi đó quy định về thế chấp tài sản lại theo hướng giải quyết khoản nợ của từng cá nhân được bảo đảm trên từng tài sản thế chấp cụ thể;

Mỗi chế định đều có căn cứ để giải quyết khác nhau đối với khoản nợ: Pháp luật phá sản dựa trên giá trị tối đa của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp để bảo đảm lợi ích của tất cả các chủ nợ còn pháp luật xử lý tài sản thế chấp lại dựa trên giá trị của từng tài sản thế chấp để đảm bảo lợi ích của từng chủ nợ cụ thể.

Với những đặc điểm và mục tiêu khác nhau cơ bản trên, thì sự mâu thuẫn giữa pháp luật phá sản và quy định về xử lý tài sản thế chấp là không tránh khỏi. Tuy nhiên, giữa chúng lại có mối quan hệ qua lại, ảnh hưởng đến nhau. Điều này được thể hiện dưới các khía cạnh:

Thứ nhất, việc xử lý tài sản thế chấp hiệu quả là một nhân tố quan trọng dẫn đến sự thành công khi giải quyết các thủ tục về phá sản. Kết luận này được xây dựng dựa trên hai lý do cơ bản sau:

(i) Các thông tin rõ ràng về việc thế chấp là cơ sở để giải quyết nhanh chóng việc phá sản. Khi giải quyết việc phá sản, tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ phải lập danh sách các chủ nợ có bảo đảm và không bảo đảm. Đối với các khoản vay có thế chấp đã được đăng ký hay thông báo công khai là những thông tin chắc chắn và đáng tin cậy để tổ quản lý, thanh lý tài sản xác định những chủ nợ được ưu tiên thanh toán từ những tài sản thế chấp cũng như xác định phạm vi những chủ nợ không bảo đảm. Không những thế, hệ thống đăng ký thế chấp là căn cứ để tổ quản lý tài sản giải quyết khi có nhiều chủ nợ cùng có quyền trên một tài sản thế chấp. Thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm là nguồn thông tin chắc chắn đáng tin cậy để xác định thứ tự ưu tiên giữa các chủ thể cùng nhận thế chấp trên một tài sản. Từ đó, tổ quản lý tài sản cũng đánh giá được vị trí và ảnh hưởng của chủ nợ có bảo đảm được quyền ưu tiên thanh toán trước trong trường hợp tái cấu trúc hay tổ chức lại doanh nghiệp;

(ii) Hiệu quả của xử lý tài sản thế chấp sẽ tạo áp lực để giải quyết phá sản nhanh chóng. Một hệ thống thực thi thế chấp hiệu quả sẽ ảnh hưởng quan trọng đến hệ thống luật phá sản, bởi nó sẽ thuyết phục con nợ trong việc chấm dứt các hành vi làm vô hiệu hoá tài sản thế chấp và tự nguyện tái cấu trúc lại doanh nghiệp một cách nhanh chóng.

Thứ hai, việc xử lý tài sản thế chấp không hiệu quả cũng sẽ khiến cho việc giải quyết phá sản khó khăn. Việc xử lý tài sản thế chấp có thể quá lâu, quá tốn kém và không đảm bảo hiệu quả thương mại. Phần lớn việc xử lý tài sản thế chấp được tiến hành thông qua Toà án. Các thủ tục tư pháp tại Toà án cùng với sự phản đối của con nợ khiến cho việc xử lý kéo dài hoặc bị trì hoãn.

Ngay cả khi có lệnh của Toà án được quyền thu giữ tài sản thế chấp, nhưng bên nhận thế chấp không được quyền tự bán để thu hồi nợ mà phải bán thông qua một cơ quan của nhà nước. Hệ thống pháp luật về xử lý tài sản thế chấp không hiệu quả có thể dẫn đến những hậu quả pháp lý như: Con nợ sẽ lợi dụng những quy định không hiệu quả của pháp luật để trì hoãn và cản trở quá trình xử lý tài sản thế chấp; con nợ sẽ không được khuyến khích hay cảm thấy bị bắt buộc để tiến hành các bước tái cấu trúc lại hoạt động của doanh nghiệp; do việc xử lý tài sản thế chấp không hiệu quả, nên bên nhận thế chấp đành trông chờ vào thủ tục phá sản là cơ sở cuối cùng để bảo vệ quyền lợi của mình.

Như vậy, giữa thủ tục xử lý tài sản thế chấp và thủ tục giải quyết phá sản có quan hệ tác động ảnh hưởng lẫn nhau ở cả hai phương diện tích cực cũng như tiêu cực.

2. Quá trình giải quyết phá sản có liên quan đến tài sản thế chấp

Lợi ích của bên nhận thế chấp được tạo ra và ghi nhận theo pháp luật của giao dịch bảo đảm, nhưng vẫn bộc lộ những mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản của pháp luật về phá sản. Theo pháp luật phá sản, khi có đơn yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp phá sản thì mọi giao dịch của con nợ đều bị đình chỉ hoặc không có giá trị.

Quy định này nhằm bảo vệ chủ nợ từ những giao dịch gian lận giữa con nợ với chủ thể khác, đặc biệt là giao dịch giữa con nợ với những người thân của mình nhằm tẩu tán tài sản. Một vấn đề đặt ra là, những quy định này có nên áp dụng đối với các giao dịch được bảo đảm bởi thế chấp? Có 2 quan điểm về vấn đề này:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, không thể vô hiệu hoá giá trị của giao dịch thế chấp, vì mục đích thương mại của những giao dịch này đã được xác định và mọi sự can thiệp đến quyền của các chủ nợ có bảo đảm đều sai. Nếu Luật Phá sản đặt ra những mối đe doạ đối với những người cho vay thì họ có thể sẽ quyết định không cho vay.

Quan điểm thứ hai cho rằng, không có lý do gì để phân biệt giữa giao dịch có thế chấp với các giao dịch có mục đích thương mại khác. Nếu nguyên tắc loại bỏ những giao dịch thương mại khi giải quyết phá sản được tuyên bố rõ ràng, thì chúng nên được áp dụng đối với mọi giao dịch, trong đó có giao dịch thế chấp.

Nếu Luật Phá sản ủng hộ tiến trình giải quyết nợ theo một trật tự và mang tính tập thể cùng chia sẻ giữa các chủ nợ thì sẽ dẫn đến việc can thiệp như hạn chế hay cấm việc giải quyết nợ theo từng cá nhân. Luật sẽ chuyển quyền theo hợp đồng cụ thể thành quyền của tập thể chủ nợ và cùng chia sẻ quyền lợi giữa các chủ nợ. Nguyên tắc này được thừa nhận và áp dụng giữa các chủ nợ không có bảo đảm bởi mục đích nó giúp cho việc xác định toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nợ sẽ được bán.

Đối với các giao dịch bảo đảm (có biện pháp thế chấp), thì không thể bị can thiệp hay bị hạn chế bởi lợi ích của tập thể chủ nợ, vì không có quy định nào về việc chuyển lợi ích cá nhân trong các giao dịch có bảo đảm sang lợi ích tập thể chủ nợ.

Tuy nhiên, sự phát triển của khái niệm “giải cứu” hoặc “tổ chức lại” doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản đã dẫn đến sự phát triển của nguyên tắc trên và nó cũng được áp dụng đối với các giao dịch bảo đảm. Theo đó, các giao dịch bảo đảm cũng sẽ bị ngừng ngay lập tức trong giai đoạn “giải cứu” doanh nghiệp.

Bởi lẽ, nếu tài sản thế chấp bị bán đi để thanh toán nợ, thì doanh nghiệp không thể phục hồi được hoạt động kinh doanh của mình. Lợi ích lớn nhất mà chủ nợ có bảo đảm có thể nhận được từ việc áp dụng nguyên tắc chuyển quyền cá nhân thành quyền tập thể là được giữ một vị trí trong thành phần những chủ thể có thẩm quyền tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp.

Cơ hội này sẽ không thể có nếu tài sản bảo đảm bị bán đi hoặc xử lý bởi các chủ nợ có bảo đảm theo những hợp đồng bảo đảm đã ký kết. Việc tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm (thế chấp) chỉ nên được áp dụng nếu thoả mãn được 2 điều kiện là việc tổ chức lại hoạt động của doanh nghiệp nợ có tính khả thi và chủ nợ có bảo đảm đã đạt được một cam kết trong kế hoạch để tổ chức lại doanh nghiệp.

Việc tái tổ chức lại doanh nghiệp có thể giúp doanh nghiệp được điều hành bởi những người quản lý có kỹ năng và kinh nghiệm. Chủ nợ có bảo đảm cần phải được ghi nhận là một thành phần trong việc tái cấu trúc lại doanh nghiệp trong thời gian tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm.

3. Những bất cập của pháp luật hiện hành về phá sản liên quan đến xử lý tài sản thế chấp và một vài kiến nghị

Pháp luật về phá sản của Việt Nam đã bộc lộ những bất cập liên quan đến xử lý tài sản thế chấp. Cụ thể:

Thứ nhất, Điều 27 Luật Phá sản năm 2004 quy định về việc tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp được áp dụng kể từ khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Thông thường, việc đình chỉ này sẽ luôn được áp dụng cho dù thẩm phán quyết định bất cứ thủ tục phá sản nào được quy định tại Điều 5 của Luật Phá sản.

“Điều 5:

1. Thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản bao gồm: (a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; (b) Phục hồi hoạt động kinh doanh; (c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ; (d) Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.

2. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của Luật này, thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục quy định tại điểm b và điểm c của khoản 1 Điều này hoặc quyết định chuyển từ phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản”.

Quy định trên của Luật Phá sản thể hiện sự linh hoạt của pháp luật trong việc đưa ra các giải pháp phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thẩm phán sẽ quyết định hoặc cho doanh nghiệp được phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc dùng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp để thanh toán nợ.

Theo chúng tôi, việc đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp chỉ nên áp dụng đối với thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mà không phù hợp với thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ. Với mục tiêu giải cứu doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, thì tất cả các tài sản của doanh nghiệp, trong đó có tài sản thế chấp cần phải được giữ lại để doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động kinh doanh. Còn đối với thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ thì quy định tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm là không cần thiết và không phù hợp bởi việc xử lý tài sản bảo đảm phải được tiến hành đồng thời với việc thanh lý tài sản và trả nợ.

Thứ hai, pháp luật về phá sản còn thiếu những quy định về bảo vệ quyền cho bên nhận thế chấp trong thời gian tạm đình chỉ xử lý tài sản thế chấp: Việc đình chỉ xử lý tài sản thế chấp sẽ tạo ra tình trạng căng thẳng giữa lợi ích của bên nhận thế chấp và lợi ích của doanh nghiệp. Quá trình này chỉ nên áp dụng nếu pháp luật có những quy định đảm bảo được quyền của bên nhận thế chấp. Những giải pháp cụ thể còn thiếu trong quy định của pháp luật hiện hành về phá sản là:

(i) Những quy định về vị trí, vai trò của bên nhận thế chấp trong quá trình phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Bên nhận thế chấp phải là một bộ phận cấu thành trong hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp như tham gia vào kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp hoặc uỷ quyền cho người khác tham gia.

Bên nhận thế chấp phải được biết quyền lợi của mình sẽ được bảo đảm như thế nào khi áp dụng kế hoạch tổ chức lại doanh nghiệp. Thời gian tạm đình chỉ xử lý tài sản thế chấp phải phù hợp với kế hoạch đó và giá trị của biện pháp thế chấp sau khi tái cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp phải được duy trì và đảm bảo.

Luật Phá sản năm 2004 không có những quy định về những vấn đề này, mà ngược lại còn quy định làm giảm vị trí của bên nhận thế chấp trong quá trình giải quyết phá sản như quy định thành viên của tổ quản lý, thanh lý nợ không bao gồm chủ nợ có thế chấp (chỉ gồm một người đại diện có số nợ lớn nhất).

(ii) Quy định của pháp luật phá sản hiện hành không có sự phân biệt về vị trí và ảnh hưởng của chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm trong danh sách hội nghị chủ nợ, thậm chí quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm còn không được bảo vệ như chủ nợ không bảo đảm.

Trong bài viết “Luật Phá sản năm 2004 – những tiến bộ và hạn chế”, Tạp chí Khoa học pháp lý, TS. Nguyễn Thái Phúc có nhận xét về thời điểm cấm thanh toán nợ đối với chủ nợ có bảo đảm là khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (theo Điều 27 Luật Phá sản), trong khi đó thời điểm cấm thanh toán nợ đối với chủ nợ không bảo đảm là khi có quyết định tuyên bố mở thủ tục phá sản (theo Điều 31 Luật Phá sản).

Điều này có nghĩa là, trong giai đoạn từ khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, đến khi có quyết định mở thủ tục phá sản thì các chủ nợ không có đảm bảo vẫn được thanh toán hoặc được bù trừ nghĩa vụ theo quy định tại Điều 48; trong khi đó thì chủ nợ có bảo đảm sẽ bị cấm những quyền này.

(iii) Thời gian tạm đình chỉ xử lý tài sản thế chấp cần phải được hạn chế và xác định trong một khoản thời gian cụ thể và chắc chắn. Luật Phá sản năm 2004 còn thiếu những quy định hướng dẫn cụ thể về thời gian này. Căn cứ để xác định khoảng thời gian này phụ thuộc vào kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có sự đồng ý của chủ nợ có bảo đảm; hoặc luật phải quy định về khoảng thời gian tối thiểu.

(iv) Những trường hợp được phép xử lý tài sản thế chấp trong quãng thời gian tạm đình chỉ: Theo Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 28/4/2005 hướng dẫn quy định chi tiết Luật Phá sản năm 2004:

“2.3. Trong trường hợp có chủ nợ bảo đảm có yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã, thì thẩm phán phải thông báo cho họ biết nguyên tắc chung việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp và hợp tác xã đang phải tạm đình chỉ. Chỉ trong trường hợp có đầy đủ các điều kiện sau đây, thì thẩm phán có thể cho phép xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với chủ nợ có bảo đảm:

a. Tài sản có yêu cầu xử lý là tài sản bảo đảm cho khoản nợ đã đến hạn;

b. Việc xử lý tài sản bảo đảm đó không làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tácxã;

c. Người yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm có đơn yêu cầu, trong đó trình bàycác lý do của việc xin xử lý tài sản bảo đảm và xét thấy các lý do đó là chính đáng , việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với họ là cần thiết”.

Quy định trên chưa xuất phát từ cơ sở bảo vệ lợi ích cho chủ nợ có bảo đảm và hầu như sẽ không thực hiện được trên thực tế, bởi những căn cứ áp dụng mang tính chất chung chung như “không ảnh hưởng lớn” đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm “là cần thiết” là những điều kiện rất khó chứng minh. Khi đó, quyền quyết định có cho phép xử lý tài sản thế chấp hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của thẩm phán.

Theo chúng tôi, Luật Phá sản cần xác định rõ ràng trường hợp duy nhất được đình chỉ xử lý tài sản thế chấp là khi thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Trong thời gian phục hồi đó, thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu được bán tài sản thế chấp.

Còn đối với trường hợp áp dụng thủ tục thanh lý tài sản và thanh toán nợ, thì việc bán tài sản thế chấp là đương nhiên mà chủ nợ có thế chấp không cần phải làm đơn yêu cầu. Trong trường hợp trên, nếu có yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp thì Luật Phá sản cần bổ sung căn cứ cụ thể như: Việc tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm là không phù hợp với điều kiện tài chính của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản (trong trường hợp doanh nghiệp không có kế hoạch phục hồi hoạt động hoặc kế hoạch phục hồi không có tính khả thi; nếu kế hoạch phục hồi có tính khả thi thì tài sản bảo đảm không tham gia vào quá trình này) và/hoặc việc tạm đình chỉ xử lý tài sản thế chấp là nguyên nhân gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được, không thể sửa chữa được đối với bên nhận thế chấp.

Nếu bên nhận thế chấp không thể xử lý để thu hồi nợ đúng hạn, thì họ cũng sẽ lâm vào tình trạng phá sản hoặc tài sản thế chấp phải được xử lý ngay nếu không sẽ bị hư hỏng và tiêu huỷ… là những chứng cứ để bên nhận thế chấp yêu cầu Toà án cho phép xử lý tài sản thế chấp ngay cả khi Toà án đã thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.

Luật Phá sản cũng cần có những quy định bổ sung về quyền được yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của bên nhận thế chấp trong trường hợp tài sản thế chấp bị hư hỏng, giảm sút giá trị trong quãng thời gian tạm đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản, các khoản nợ.

Thứ ba, quy định về thanh lý tài sản và các khoản nợ: Như trên đã phân tích, khi thẩm phán quyết định áp dụng thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ thì các tài sản thế chấp cũng phải được xử lý ngay.

Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2004 chưa có quy định cụ thể về việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện tách rời, độc lập hay thực hiện chung với các thủ tục thanh lý nợ. Việc xử lý này chỉ tiến hành đồng thời theo thủ tục phá sản nếu có thoả thuận giữa tổ quản lý, thanh lý tài sản với bên nhận thế chấp. Nội dung của sự thoả thuận bao gồm chủ thể được quyền bán tài sản, phương thức bán và trách nhiệm thanh toán tiền ngay cho bên nhận thế chấp khi tài sản đã được bán xong.

Nếu không có sự thoả thuận, thì việc xử lý tài sản thế chấp sẽ được giải quyết riêng. Điều 35 Luật Phá sản năm 2004 cũng có quy định về việc giải quyết số tiền bán được tài sản thế chấp nếu có sự chênh lệch giữa số tiền thu được với khoản nợ phải thanh toán cho bên nhận thế chấp như sau: “Xử lý các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố: Trường hợp thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị của tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã”.

Việc bán tài sản thế chấp được giải quyết tách rời với các thủ tục thanh lý tài sản và thanh toán nợ của doanh nghiệp có nghĩa là bên nhận thế chấp được quyền bán và quyết định phương thức bán theo như đã thoả thuận hoặc bán đấu giá. Việc giám sát của Toà án có thể đặt ra nếu bên thế chấp chứng minh có sự lạm quyền của bên nhận thế chấp trong quá trình xử lý tài sản thế chấp.

Thứ tư, quy định về việc ưu tiên thanh toán với tiền công lao động hay nợ thuế của Nhà nước. Số tiền thu được từ việc bán tài sản thế chấp có được dành quyền ưu tiên thanh toán cho tiền công của những người lao động hay tiền nợ thuế của nhà nước khi doanh nghiệp nợ bị lâm vào tình trạng phá sản?

Theo chúng tôi, không có căn cứ nào để đặt quyền lợi của người lao động hay của Nhà nước lên trên quyền lợi của bên nhận thế chấp. Bởi đó là những quyền lợi mà bên nhận thế chấp không thể đoán trước được và không có căn cứ để xác định từ trước khi quyết định cho vay tài sản dựa trên tài sản của doanh nghiệp.

Tiền nợ thuế của Nhà nước hay tiền lương còn thiếu là trách nhiệm của các tổ chức xã hội hay các cơ quan bảo hiểm khác mà hoàn toàn không thể là gánh nặng gây áp lực cho bên nhận thế chấp. Nếu những quyền lợi trên đã được thông báo hay đăng ký công khai khiến cho bên cho vay có thể đánh giá trước được mức độ rủi ro và sự ảnh hưởng của chúng đến quyền lợi của mình, thì Nhà nước và những người lao động mới có được quyền ưu tiên thanh toán trước từ số tiền thu được do bán tài sản thế chấp.

Trên đây là một số ý kiến trao đổi dưới góc nhìn về mối tương quan giữa pháp luật phá sản với những quy định về xử lý tài sản thế chấp. Đây là hai chế định pháp luật cùng được áp dụng cho một hoạt động thương mại và cũng tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, bởi những lợi ích khác nhau mà mỗi chế định nhằm đạt tới. Hài hoà và thống nhất được những lợi ích này trong hai chế định để bảo đảm được lợi ích hợp pháp của tất cả các chủ thể có liên quan là nhiệm vụ quan trọng của những bước sửa đổi tiếp theo.

ThS. Vũ Thị Hồng Yến

Đại học Luật Hà Nội

Bài liên quan:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191