Phân tích Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát

TỘI XÚI GIỤC HOẶC GIÚP NGƯỜI KHÁC TỰ SÁT ( ĐIỀU 101)

Xúi giục người khác tự sát là hành vi của một người đã có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.

Giúp người khác tự sát là hành vi của một người tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.

Đây là điều luật quy định hai hành vi phạm tội. Nếu người phạm tội có cả hai hành vi xúi giục và giúp người khác tự sát thì tội danh mà họ bị truy cứu là tội “xúi giục và giúp người khác tự sát” chứ không có từ “hoặc” và nếu người phạm tội chỉ có hành vi xúi giục thì định tội là “xúi giục người khác tự sát”, nếu chỉ có hành vi giúp thì định tội là “Giúp người khác tự sát”.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Hành vi xúi giục người khác tự sát

Hành vi xúi dục người khác tự sát bao gồm:

– Kích động người tự sát.

Kích động người khác tự sát là có những lời lẽ nhằm thúc đẩy bằng cách tác động tâm lý làm cho người bị kích động tự ái tới mức cao độ nên đã tự sát. Nếu không có những lời lẽ kích động đó thì nạn nhân dù có chán  đời, có những uẩn khúc trong cuộc sống cũng chưa tới mức tự sát. Ví dụ: Chị Hoàng Thị D đang chán đời , vì bị chồng ruồng bỏ, hắt hủi muốn ly dị. Trần Văn K là một thanh niên càn quấy, rượu chè, bị chồng chị D mua chuộc nhờ K tìm cách xúi giục làm cho chị D tự ái mà tự tử. T nhận lời đến gặp chị D và nói: “Em mà như chị thì em chẳng sống làm gì cho khổ… chồng con gì mà tệ bạc… ngày nào em cũng thấy anh ấy đi chơi với cô X cùng cơ quan, nhiều lần bắt gặp hai người trong công viên v.v…” Sẵn chán đời, lại nghe K nói như vậy chị D đã uống thuốc tự tử.

– Dụ dỗ người khác tự sát.

Là người phạm tội đã có những lời lẽ khuyên bảo một cách khéo léo để làm cho người khác tự sát theo ý muốn của mình. Ví dụ: Tạ Thị L và Bùi Văn H yêu nhau, nhưng H còn yêu cả chị M và muons cắt đứt với L nên H nói dối với L là gia đình H không đồng ý cho H lấy L làm vợ. Vì quá yêu H nên L bàn với H trốn khỏi địa phương, H lấy lí do là không thể đi được, nhưng để trọn tình với L, H bàn với L là cả hai cùng nhảy xuống sông tự tử để cả hai đứa mãi mãi được ở bên nhau. Vì quá yêu H nên L đồng ý, cả hai đều nhất trí khi nào H hô đến ba thì nhảy xuống sông. Khi H hô đến ba thì chỉ có L nhảy xuống sông còn H thì quay về báo cho mọi người biết là L tự tử.

Những lời nói kích động, dụ dỗ của người phạm tội là nhằm thúc đẩy nạn nhân đến chỗ tự sát. Vì vậy, ý thức của người phạm tội là mong muốn làm sao cho nạn nhân tự sát. Nếu chỉ vì một vài lời nói có tính chất kích động mà nạn nhân sẵn có ý muốn tự sát, còn người có lời nói đó hoàn toàn không mong muốn cho nạn nhân tự sát thì cũng không phạm tội xúi giục người khác tự sát. Ví dụ: Chị B và chị C cùng làm việc ở một cơ quan. Có lần chị C tâm sự với chị B về việc chồng mình đi ngoại tình, về nhà còn đánh đập chửi mắng vợ con. Nghe chuyện, chị B cũng bực tức và nói: “Tôi mà như thế thì chết quách cho đỡ khổ”. Mấy ngày sau, chị C thắt cổ tự tử.

  1. Hành vi giúp người khác tự sát

Hành vi giúp người khác tự sát là hành vi tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất để người khác tự sát, như: tìm kiếm, cung cấp phương tiện để nạn nhân tự sát hoặc hứa hẹn trước với nạn nhân giữ kín việc tự sát của họ. Ví dụ: A biết B có ý định tự sát và A cũng muốn B tự sát nhưng B chưa biết tự sát bằng cách nào, B nhờ A đi mua hộ thuốc ngủ và không được nói là mua hộ B, A đã nhận lời và mua cho B 20 viên thuốc ngủ và B đã uống một lúc hết 20 viên thuốc ngủ nên đã bị chết.

Người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì mới là phạm tội giúp người khác tự sát. Nếu họ không biết và không thể biết hành động của mình tạo điều kiện cho nạn nhân tự sát thì không phạm tội này. Ví dụ: Chị K bị chồng ruồng bỏ, nên chán đời muốn tự tử. Chị K đến nhờ N mua hộ 10 lít xăng, N hỏi chị mua xăng làm gì, chị K trả lời về đổi lấy dầu chạy máy xát gạo vì nhà chị K có máy xát gạo, N tưởng thật đã mua cho chị K 10 lít xăng. Tối hôm đó, trong lúc gia đình đi vắng, chị K đã đổ xăng vào nhà và đổ vào quần aó rồi bật lửa tự thiêu.

  1. Người bị hại phải tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng

Cũng tương tự như trường hợp bức tử, nạn nhân bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v… Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại không thực hiện hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình mà nhờ người khác giúp thì không phải là giúp người khác tự sát mà người có hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự. Ví dụ: A muốn tự sát bằng súng K54, nhưng không dám bắn nên đã nhờ B bắn vào đầu mình khi B đang ngủ say.

Cả hai trường hợp xúi giục và giúp người khác tự sát, chỉ cần người bị xúi giục hoặc được giúp đỡ có hành vi tự sát là tội phạm đã hoàn thành, còn nạn nhân có chết hay không, điều đó chỉ có ý nghĩa khi xem xét đến việc quyết định hình phạt hoặc xem xét đến việc có truy tố người phạm tội này hay không chứ không có ý nghĩa định tội. Tội phạm này cũng không có giai đoạn phạm tội chưa đạt, bởi lẽ dù có bị xúi giục hoặc được giúp đỡ đến mức nào đi nữa mà người bị xúi giục, người được giúp đữ không tự sát thì vẫn chưa phải là tội phạm.

Cả hai trường hợp phạm tội trên, người phạm tội thực hiện hành vi của mình đều do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, thấy trước được hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự sát nhất định hoặc có thể dẫn đến nạn nhân tự sát và mong muốn hoặc bỏ mặc cho việc tự sát xảy ra. Nếu nạn nhân bị chết thì cái chết của nạn nhân chỉ là hậu quả gián tiếp do hành vi xúi giục hoặc giúp đỡ nạn nhân của người phạm tội chưa không phải là hậu quả trực tiếp. Vì vậy, không nên xét lỗi của người phạm tội đối với cái chết của nạn nhân.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Xúi dục hoặc giúp một người tự sát ( khoản 1 Điều 101)

Xúi dục hoặc giúp một người tự sát là có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho một người tự tước đoạt tính mạng của họ và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ từ sáu tháng đến ba năm tù. So với Điều 106 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 101 là tội phạm nhẹ hơn. Nếu hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 101 đối với người phạm tội.

Đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng, nên đường lối xử lý nói chung chỉ truy tố xét xử những trường hợp nạn nhân bị chết hoặc bị thương tật nặng, còn đối với các trường hợp nạn nhân tuy đã tự sát nhưng không bị chết hoặc chỉ bị thương tật nhẹ, thì nói chung không truy tố xét xử mà chủ yếu giáo dục hoặc xử lý bằng biện pháp khác.

  1. Xúi dục hoặc giúp nhiều người tự sát ( khoản 2 Điều 101)

Xúi dục hoặc giúp nhiều người tự sát là có những lời lẽ kích động, dụ dỗ, thúc đẩy hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho từ hai người trở lên tự tước đoạt tính mạng của họ và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ từ hai năm đến bảy năm tù.

Nếu xúi dục một người tự sát và giúp một người tự sát thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự nhưng tội danh của người phạm tội là “xúi dục và giúp người khác tự sát” (thay liên từ “hoặc’ bằng liên từ “và”).

Đây là tội phạm nghiêm trọng và cũng tương tự như đối với tội bức tử, do yêu cầu thực tiễn xét xử nên nhà làm luật quy định một cấu thành tăng nặng đối với tội này. Do đó chỉ hành vi phạm tội được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới áp dụng khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191