BỒI THƯỜNG 70 TRIỆU ĐỒNG VÌ ĐĂNG ẢNH KHÔNG XIN PHÉP – QUYỀN HÌNH ẢNH, TỪ QUY ĐỊNH ĐẾN THỰC TẾ
MINH KHÔI
1. Bị phạt và bồi thường
Theo nội dung vụ án “Yêu cầu xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”, giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M (thị trấn Cái Rồng, Vân Đồn, Quảng Ninh) với bị đơn là báo Gia đình Việt Nam (Cầu Giấy, TP.Hà Nội) thì năm 2013, nhà báo Phạm Ngọc Dương đã đến gặp bà M tại huyện Vân Đồn để tìm hiểu thông tin một vụ việc cần xác minh để viết bài.
Nhà báo Phạm Ngọc Dương đã chụp nhiều ảnh bà M sau đó, bài viết đăng tải trên ấn phẩm Gia đình và Cuộc sống (thuộc báo Gia đình Việt Nam), có kèm tấm ảnh chân dung của bà M.
Sau đó do bất đồng quan điểm, bà M đã gửi đơn đến Thanh tra Bộ TT&TT về việc báo tự ý đưa ảnh chân dung của mình lên báo. Thanh tra Bộ TT&TT đã xử phạt hành chính 9 triệu đồng đối với Báo Gia đình Việt Nam.
Tiếp đó, bà M khởi kiện Báo Gia đình Việt Nam ra tòa, yêu cầu xin lỗi, cải chính công khai và đòi bồi thường hơn 300 triệu đồng.
Ông Phạm Ngọc Dương cho hay, ông Dương đến huyện Vân Đồn gặp bà M. để tìm hiểu và viết bài về con bà có dấu hiệu bị oan trong một vụ án hình sự nên được bà M. tiếp đón, cung cấp chứng cứ. Khoảng 21 giờ, ông Dương chụp chân dung bà M. để đăng kèm bài báo, bà M. ngồi nhìn vào ống kính, đèn flash bật sáng. Toàn bộ thông tin bà M. cung cấp được ghi âm đầy đủ. Ông Dương cho rằng mục đích viết bài là để làm sáng tỏ sự thật, giải đáp cho dư luận tránh hiểu sai về các cơ quan tố tụng, cũng là muốn bà M. nhận ra sự thật.
Tóm lại, bị đơn không không có hành vi chụp lén, hay có mục đích bôi nhọ làm xấu đi hình ảnh, danh dự, uy tín và nhân phẩm như lời bà M khai trong các phiên tòa xét xử.
Bản án sơ thẩm sơ thẩm của TAND quận Cầu Giấy quyết định buộc Báo Gia Đình Việt Nam phải cải chính thông tin, xin lỗi bà M và bồi thường gần 70 triệu đồng gồm các khoản chi phí tổn thất về tinh thần, tiền đi xe khách, tiền đi xe ôm, tiền ăn uống, thuê luật sư tư vấn…
Báo Gia Đình Việt Nam đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Họ giữ quan điểm Báo không vi phạm vi phạm các quy định của Luật báo chí 1989, sửa đổi bổ sung năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành của Luật báo chí.
2. Bài học về quyền hình ảnh
Vụ án về quyền hình ảnh trên đây là tín hiệu nhắc nhở chung về một lĩnh vực liên quan đến danh dự, nhân phẩm, đến quyền con người mà lâu nay chưa được chú trọng.
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên…
Điều 32 BLDS năm 2015 BLDS qui định:
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ: a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.”
So với quy định tại Điều 31 BLDS năm 2005, quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong BLDS năm 2015 có nhiều điểm mới, luật đã xây dựng cơ chế bảo vệ chặt chẽ hơn về quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình, nghĩa là, khi sử dụng hình ảnh của một ai đó, yêu cầu phải có được sự chấp thuận của người có hình ảnh được sử dụng và phải trả thù lao nếu có phát sinh lợi nhuận. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ chỉ áp dụng với trường hợp vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng hoặc trong các hoạt động công khai công cộng, như hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Luật cho phép người bị xâm phạm yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc chủ thể vi phạm phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh và bồi thường thiệt hại, kể cả với trường hợp sử dụng trái phép cho mục đích phi lợi nhuận.
Quy định như trên, được xem là phù hợp với xu hướng luật pháp quốc tế cũng như văn hóa của người Việt, khích lệ các hành xử nhân văn, nhân ái trong xã hội và bảo vệ tốt hơn quyền đối với hình ảnh của công dân và bảo đảm tính khách quan, có trách nhiệm hơn của các cơ quan báo chí, của cộng đồng mạng xã hội.
“Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý”, qui định này buộc mọi người phải tuân thủ, nhất là với báo chí. Nếu không tuân thủ điều này thì báo chí rất dễ bị khởi kiện và có thể phải xin lỗi bồi thường, nếu tấm ảnh không đẹp, đăng trong bài có nội dung không phù hợp, và vô số lý do khác… Khi bị kiện nhà báo khó có thể lấy mục đích để biện minh cho phương tiện, chỉ đơn giản là vì cá nhân đó không đồng ý.
Một cá nhân có thể cho nhà báo chụp ảnh, nhưng có cho đăng ảnh lên báo hay không lại là chuyện khác. Muốn tuân thủ đúng pháp luật thì nhà báo phải có được sự đồng ý của người đó. Mấu chốt của vụ án trên có lẽ là Báo Gia đình Việt Nam không có được chứng cứ chứng mình rằng bà M. đã đồng ý cho đăng hình ảnh lên báo.
Vụ án trên đây không chỉ nhắc nhở, là bài học cho báo chí mà còn là bài học nhắc nhở các Facebooker, người dùng mạng xã hội, nếu tùy tiện đưa ảnh người khác lên Facebook cũng rất dễ bị kiện và hậu quả có thể thấy trước.
CẦN HƯỚNG DẪN CỤ THỂ
Hiện nay báo chí, mạng xã hội phát triển rất nhanh nên nguy cơ xâm phạm hình ảnh cá nhân cũng cao hơn trước đây rất nhiều. Đã có nhiều trường hợp hình ảnh cá nhân được đưa lên báo chí hay mạng xã hội mà cá nhân đó chắc chắn không đồng tình. Ví dụ hình ảnh ngủ gật trong hội nghị, phát âm sai, nói ngọng trên diễn đàn, sự cố trang phục hay động tác xấu, hở hang khi thi đấu thể thao, khi biểu diễn nghệ thuật, rồi những hình ảnh thuộc về đời sống riêng tư của có tính chất “nhạy cảm” … chắc chắn ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân đó.
Luật đã qui định những nguyên tắc chung, nhưng thực tế biểu hiện của việc xâm phạm hình ảnh cá nhân muôn màu muôn vẻ nên dường như qui định của luật chưa được tuân thủ chặt chẽ. Vì thế, rất cần có nhưng văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể về quyền hình ảnh để luật dễ đi vào cuộc sống. Nếu chỉ có những qui định khung trên đây thì các cá nhân khó bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi bị xâm phạm hình ảnh, mà tình trạng xâm phạm hình ảnh khó có thể được ngăn chặn. Đồng thời, qui định cụ thể sẽ ra tạo hành lang pháp lý an toàn cho báo chí tác nghiệp đúng pháp luật, vừa bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền của bạn đọc mà tránh được những rủi ro pháp lý không đáng có.
Yêu cầu “Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý” cũng cần hướng dẫn cụ thể, hình thức “đồng ý” như thế nào là phù hợp với qui định của pháp luật. Nếu cá nhân đó không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì việc đồng ý cho sử dụng hình ảnh của mình như thế nào? Luật cũng chỉ mới qui định về sự đồng ý của cá nhân mà chưa qui định về sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, người giám hộ…
Trở lại vụ án trên đây, chắc chắn Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét lại toàn bộ vụ án, từ nội dung bài báo có hình bà M. đến những lý lẽ và chứng cứ chứng minh của bị đơn là Báo Gia đình Việt Nam để vụ án được giải quyết đúng pháp luật, thấu lý đạt tình.
Đây là tình huống đáng quan tâm, rất mong nhận được ý kiến thảo luận của bạn đọc gần xa.
SOURCE: TAP CHÍ TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:
http://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/boi-thuong-70-trieu-vi-dang-anh-khong-xin-phep-quyen-hinh-anh-tu-quy-dinh-den-thuc-te/B1PGqP33-.html
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.