Tôi xin được tư vấn cho trường hợp của tôi như sau: Sổ đỏ đất đứng tên bố chồng tôi, năm 2002 bố chồng tôi mất, năm 2003 mẹ chồng tôi làm sang tên sổ đỏ đất sang tên mẹ chồng tôi, năm 2006 mẹ chồng tôi sang tên cho chị gái chồng tôi. Chồng tôi là con trai duy nhất hoàn toàn không biết sự việc. Xin hỏi việc mẹ chồng tôi sang tên cho con gái tài sản có đúng luật không? Vợ chồng tôi có thể khởi kiện để đòi chia phần tài sản trên không?
Gửi bởi: Bùi Thu Hiền
Trả lời có tính chất tham khảo
Khi bố bạn chết, di sản do ông để lại (là quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận đứng tên ông) được chia cho những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của ông. Vì bạn không cung cấp thông tin về việc bố chồng bạn có để lại di chúc hay không nên chúng tôi sẽ nêu hai trường hợp để bạn tham khảo.
Trường hợp thứ nhất: Trước khi chết, bố bạn để lại di chúc
Nếu bố bạn để lại di chúc, di sản do bố bạn để lại sẽ được chia cho những người được chỉ định trong di chúc. Chồng bạn có thể được hưởng di sản nếu thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
(i) Là người được bố chồng bạn chỉ định trong di chúc;
(ii) Tuy không được chỉ định hưởng di sản theo di chúc nhưng tại thời điểm mở thừa kế (thời điểm bố chồng bạn chết năm 2002), chồng bạn là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo Điều 669 Bộ luật dân sự (Ðiều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Ðiều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Ðiều 643 của Bộ luật này: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con đã thành niên mà không có khả năng lao động).
Nếu chồng bạn thuộc trường hợp được hưởng di sản do bố chồng bạn để lại như nêu trên thì việc mẹ bạn tự ý làm thủ tục sang tên toàn bộ di sản cho mẹ bạn là sai; chồng bạn có quyền khởi kiện để đòi quyền hưởng di sản của mình.
Trường hợp thứ hai: Trước khi chết, bố chồng bạn không để lại di chúc
Theo khoản 1 Ðiều 675 Bộ luật dân sự, di sản do bố chồng bạn để lại được chia theo pháp luật. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây (theo Điều 676 Bộ luật dân sự):
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Theo quy định trên thì chồng bạn là một trong những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố chồng bạn, do đó, chồng bạn có quyền hưởng di sản do bố chồng bạn để lại. Việc mẹ bạn tự ý sang tên toàn bộ di sản do bố chồng bạn để lại là sai quy định của pháp luật; chồng bạn có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.
Tuy nhiên, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (khoản 1 điều 645 Bộ luật dân sự). Tính từ thời điểm bố chồng bạn chết (năm 2002) đến nay (năm 2015) đã là 13 (mười ba) năm nên thời hiệu để chồng bạn khởi kiện yêu cầu chia di sản đã hết.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Trả lời bởi: CTV3
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.