Nghiệp vụ xác minh trong công tác thanh tra tư pháp
15/05/2008
Theo từ điển Việt Nam: "xác minh" có nghĩa là "làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể". Như vậy, xác minh là tìm hiểu, thu thập các thông tin, tài liệu, chứng cứ từ những sự việc, hiện tượng xảy ra trong thực tế cuộc sống bằng những cách khác nhau để làm sáng tỏ sự thật về một vấn đề nào đó.
Trong công tác thanh tra nói chung và thanh tra tư pháp nói riêng, hiện nay chưa có một định nghĩa chính thức thế nào là xác minh, nhưng theo chúng tôi, xác minh có thể hiểu là “một biện pháp nghiệp vụ thanh tra nhằm mục đích thu thập chứng cứ để kết luận về vấn đề có liên quan đến nội dung thanh tra là đúng hay sai hoặc như thế nào”.
Ví dụ: Công dân A tố cáo Chấp hành viên B về việc đòi và nhận hối lộ 10 triệu đồng trong quá trình thi hành án việc cưỡng chế giao nhà cho A. Như vậy, để có thể xác định được là nội dung tố cáo của công dân A có đúng hay không, Chấp hành viên B có đòi và nhận hối lộ trong quá trình giải quyết việc thi hành án hay không, nếu có thì phải chịu trách nhiệm đến đâu, cơ quan thanh tra cần phải tiến hành xác minh để làm rõ một số nội dung sau:
+ Công dân A có phải là người được thi hành án không?;
+ Chấp hành viên B có phải là người thụ lý hồ sơ, chịu trách nhiệm giải quyết việc thi hành án không?;
+ Nội dung vụ việc thi hành án ra sao?;
+ Việc đòi hối lộ 10 triệu đồng được thực hiện vào thời gian nào?, đã đưa tiền chưa?, có ai làm chứng không?…
Trên cơ sở làm rõ được các vấn đề nêu trên, cơ quan thanh tra sẽ đưa ra được kết luận về việc tố cáo của công dân A là có cơ sở hay không, và nếu có cơ sở thì Chấp hành viên B phải chịu trách nhiệm đến đâu.
Như vậy, xác minh trong thanh tra là một biện pháp nghiệp vụ, do Thanh tra viên hoặc cán bộ làm công tác thanh tra của cơ quan thanh tra thực hiện nhằm mục đích thu thập được các thông tin, tài liệu từ các đối tượng xác minh có liên quan đến nội dung thanh tra, làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá và kết luận về một hoặc một số vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra cần làm sáng tỏ là như thế nào, phục vụ cho cuộc thanh tra. Xác minh là một phần việc trong quá trình tiến hành một cuộc thanh tra. Đối tượng xác minh ở đây có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức có những thông tin liên quan đến vấn đề cần xác minh được cán bộ thanh tra yêu cầu cung cấp.
Chứng cứ trong thanh tra cần phải thu thập, tìm hiểu trong công tác xác minh là những sự việc có thật có liên quan đến nội dung thanh tra được cơ quan thanh tra thu thập dùng làm căn cứ để đánh giá, kết luận đúng sai việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của đối tượng thanh tra (sự việc có thật là những việc làm cụ thể trong thực tế của đối tượng thanh tra, mà người làm công tác thanh tra phải thu thập được bằng chứng qua sổ sách, tài liệu, hiện vật…có giá trị pháp lý để nói lên việc thực hiện và kết quả thực hiện của đối tượng thanh tra mà nội dung cuộc thanh tra đặt ra).
II. Ý NGHĨA, TẦM QUAN TRỌNG CỦA XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC THANH TRA TƯ PHÁP
Nếu như thanh tra là một chức năng rất quan trọng, mang tính thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế; tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ XHCN và nhiệm vụ của bất kỳ một cuộc thanh tra nào cũng đều là "để kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước của các đối tượng thanh tra (cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức hữu quan và cá nhân) nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân" thì để thực hiện tốt được nhiệm vụ của bất kỳ một cuộc thanh tra nào, cơ quan thanh tra cần phải tiến hành nhiều công việc kể từ khi ra quyết định thanh tra đến khi có kết luận chính thức. Trong các bước công việc ấy, xác minh điều tra thu thập chứng cứ là công việc rất quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc thanh tra mà cơ quan thanh tra đang tiến hành. Bởi vì, trong một cuộc thanh tra, có những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra chưa được thể hiện một cách rõ ràng, làm cho cơ quan thanh tra chưa thể đưa ra được các nhận xét, đánh giá về vấn đề đó, cần thiết phải xác minh, tìm hiểu nội dung, làm sáng tỏ vấn đề. Chỉ khi đã tìm hiểu rõ ràng thì mới kết luận được.
Ví dụ: Khi tiến hành thanh tra công tác thi hành án dân sự một cơ quan thi hành án, chúng ta thấy có một số hồ sơ thi hành án thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành thiếu các phiếu gửi quyết định uỷ thác để thể hiện việc uỷ thác và việc nhận được uỷ thác của cơ quan uỷ thác và cơ quan được uỷ thác. Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào các tài liệu lưu trong hồ sơ chúng ta không thể biết được cơ quan thi hành án đó đã uỷ thác hay chưa?, nội dung uỷ thác có đúng không? cơ quan nhận uỷ thác đã nhận được quyết định uỷ thác chưa?.v.v.. do đó chưa thể nhận xét là cơ quan thi hành án đã làm tròn trách nhiệm trong việc thi hành bản án, cũng như chưa thể nhận xét là cơ quan thi hành án này không uỷ thác một phần quyết định bản án; chỉ sau khi tiến hành xác minh mới có thể biết được điều đó.
Trong những trường hợp nhất định, việc xác minh có thể quyết định đến sự thành công hoặc thất bại của cuộc thanh tra: xác minh tốt, đầy đủ sẽ thu được những chứng cứ sát thực, có giá trị, làm cơ sở cho việc kết luận đảm bảo tính pháp lý; ngược lại, nếu việc xác minh được tiến hành qua loa, chiếu lệ hoặc xác minh nhưng không chính xác về một vấn đề nào đó sẽ ảnh hưởng đến nhận xét, đánh giá của cơ quan thanh tra, kết luận không đúng sự thật khách quan, gây thiệt hại về nhiều mặt (thậm chí có thể gây hậu quả khó lường).
Ví dụ: trường hợp có công dân ở Hà Nội tố cáo cán bộ thi hành án ở một quận của thành phố Hà Nội đã bắt người này phải thuê xe ô tô để cho cán bộ đó đi công tác ở ngoại tỉnh trong việc giải quyết thi hành án mà người này là người được thi hành án. Sau khi điều tra, xác minh thấy rằng đúng là có việc đương sự thuê xe cho cán bộ đi công tác (cả người được thi hành án và cán bộ thi hành án đều thừa nhận việc này), nhưng nếu chỉ xác minh đến đây thì có thể kết luận là tố cáo của công dân có cơ sở, tuy nhiên sau khi xem xét biên bản giải quyết việc thi hành án giữa cơ quan thi hành án với đương sự thì thấy: đương sự đã ghi vào biên bản là "tự nguyện" thuê xe cho cán bộ đi công tác, như vậy xét về lý thì việc tố cáo lại là không đúng. Rõ ràng công tác xác minh ở đây đóng vai trò vô cùng quan trọng, mang tính quyết định trong việc nhận xét, kết luận của cơ quan thanh tra.
Tóm lại, việc xác minh trong công tác thanh tra đóng một vai trò rất quan trọng, là cơ sở để nhận xét, kết luận về các vấn đề liên quan đến nội dung cuộc thanh tra, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của cuộc thanh tra.
III. PHÂN LOẠI XÁC MINH
Người ta có nhiều cách để phân loại "xác minh", dựa vào nhiều tiêu chí và mục đích của việc phân loại, ví dụ:
+ Nếu dựa vào đối tượng xác minh và cơ quan tiến hành công việc xác minh: có nhiều loại như: xác minh điều tra tội phạm (do cơ quan điều tra tiến hành trong lĩnh vực hình sự để phát hiện tội phạm), xác minh lý lịch cán bộ, xác minh lý lịch Đảng viên (do cơ quan quản lý cán bộ, cơ quan Đảng tiến hành để điều tra lý lịch cán bộ, Đảng viên trong công tác tổ chức cán bộ), xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo (do cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan thanh tra tiến hành để giải quyết khiếu nại, tố cáo)…v.v.
+ Nếu dựa vào cách thức thu thập thông tin: có thể chia thành:
* Xác minh từng bước: là cách xác minh từng vấn đề cụ thể, theo thứ tự nhất định mà cán bộ xác minh đã vạch sẵn trong kế hoạch, sau khi xác minh xong vấn đề này mới tiến hành xác minh đến vấn đề tiếp theo. Cách này dễ áp dụng, có ưu điểm là lực lượng cán bộ sử dụng vào việc xác minh không cần nhiều, việc xác minh tuần tự tạo điều kiện cho người trưởng đoàn (hoặc trưởng nhóm) hình dung được từng bước kết luận và nắm rõ được khối lượng công việc đang tiến hành.
* Xác minh tổng thể: là cách xác minh mà cơ quan thanh tra tiến hành xác minh đồng thời cùng lúc tất cả các nội dung đã đặt ra. Sau khi có kết quả về các nội dung này sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu và rút ra được kết luận cuối cùng về vấn đề. Cách này đòi hỏi lực lượng cán bộ sử dụng vào việc xác minh phải đông và phải biết phối hợp nhịp nhàng, tránh sự trùng lặp hoặc bỏ sót thông tin.
+ Nếu dựa vào phương pháp tiến hành: có thể chia thành: xác minh tại chỗ; xác minh bằng công văn; xác minh trực tiếp (xem mục 3 phần VI);
IV. ĐẶC THÙ CỦA XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC THANH TRA TƯ PHÁP
1. Việc xác minh được thực hiện trong nội bộ ngành
Đặc điểm này xuất phát từ chỗ do thanh tra tư pháp là thanh tra chuyên ngành nên việc xác minh bao giờ cũng liên quan đến một cơ quan tư pháp hoặc cán bộ, công chức nào đó của ngành tư pháp và việc xác minh này được tiến hành trong phạm vi của ngành tư pháp. Những đối tượng khác tham gia (nếu có) có thể không phải là người trong ngành nhưng số này không phải là nhiều, họ thường tham gia với tư cách là người liên quan, còn đối tượng thanh tra chính chủ yếu là các cơ quan tư pháp hoặc cán bộ, công chức ngành tư pháp.
Trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra tư pháp với đối tượng thanh tra khi đó chủ yếu là mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới (Thanh tra Bộ với các Sở Tư pháp, các cơ quan thi hành án địa phương; Thanh tra Sở với cơ quan tư pháp địa phương cấp quận, huyện).
2. Đối tượng cần xác minh thường là những người có trình độ, am hiểu pháp luật, nhiều trường hợp là người có chức vụ cao
Lĩnh vực tư pháp bao gồm rất nhiều mảng công việc: công chứng, hộ tịch, thi hành án dân sự, đăng ký giao dịch bảo đảm, quản lý luật sư, tư vấn pháp luật…, những cán bộ, công chức làm việc trong ngành tư pháp phần lớn là những cán bộ làm công tác pháp lý, có chức danh tư pháp (Công chứng viên, Chấp hành viên, Thanh tra viên…), nhiều trường hợp là những người có chức vụ (Giám đốc Sở, Trưởng phòng…) am hiểu pháp luật chuyên sâu và có trình độ lý luận cơ bản, được đào tạo. Do vậy một yêu cầu đặt ra khi tiến hành xác minh đối với các đối tượng này là cán bộ xác minh đòi hỏi cũng phải là những người am hiểu pháp luật chuyên ngành mà nội dung của nó liên quan tới việc xác minh, có vốn kiến thức rộng rãi, lý luận vững chắc và việc tiến hành xác minh phải theo đúng quy định của pháp luật, không được làm qua loa, chiếu lệ thì mới có thể đạt được hiệu quả, làm cho đối tượng xác minh phải "tâm phục, khẩu phục".
3. Việc xác minh không nhất thiết bao giờ cũng đem lại kết quả là có kết luận thanh tra
Như phần trên đã nói, mục đích của việc xác minh là tìm hiểu, thu thập chứng cứ để làm cơ sở cho cơ quan thanh tra nhận định, đánh giá và kết luận về một vấn đề nào đó có liên quan đến nội dung cuộc thanh tra. Thông thường, việc xác minh được tiến hành như một khâu, một phần công việc mà cơ quan thanh tra phải tiến hành trong một cuộc thanh tra chính thức, tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp xác minh cũng chỉ được tiến hành trong cuộc thanh tra chính thức mà trong thực tế, việc xác minh nhiều khi chỉ mang tính chất khảo sát, thăm dò, làm cơ sở cho cơ quan thanh tra cân nhắc trước khi quyết định có nên mở cuộc thanh tra chính thức hay không.
Ví dụ: trường hợp có cán bộ một cơ quan thi hành án tố cáo Giám đốc Sở Tư pháp có nhiều hành vi vi phạm pháp luật, nhưng theo báo cáo sơ bộ bằng văn bản của Sở Tư pháp này thì cán bộ có đơn tố cáo nói trên là người có tiền sử bệnh tâm thần, đã chữa trị nhưng nay vẫn chưa khỏi hoàn toàn, tâm thần chưa bình thường nên liên tục đi tố cáo người này, người khác. Đối với vụ việc này, đứng trước hai luồng thông tin như trên, chúng tôi thấy rằng trước khi quyết định có nên mở cuộc thanh tra để xem xét, giải quyết không thì nên cử cán bộ để tiến hành khảo sát, xác minh sơ bộ một số nội dung cơ bản, sau đó nếu thấy cần thiết thì mới thành lập Đoàn Thanh tra. Đó là xem xét biểu hiện bên ngoài của cán bộ này có bình thường không (qua việc tiếp xúc, đối thoại trực tiếp; nghiên cứu hồ sơ bệnh án); xem xét sơ bộ chứng cứ (nếu có) chứng minh cho những nội dung tố cáo, tìm hiểu thông tin từ những cán bộ khác công tác trong cùng cơ quan, từ chính quyền địa phương cơ sở của cán bộ này về đạo đức, lối sống cũng như các mối quan hệ xã hội…
Sau khi tiến hành xác minh thì thấy cán bộ này đúng là có nhiều biểu hiện bất bình thường và điều quan trọng nhất là không đưa ra được một chứng cứ cụ thể nào cho nội dung tố cáo của mình. Tìm hiểu từ những cán bộ khác công tác cùng cơ quan cũng cho thấy cán bộ này vẫn có nhiều biểu hiện của bệnh tâm thần, chưa hoàn toàn khỏi bệnh mặc dù đã được chữa trị, do vậy chúng tôi kiến nghị với lãnh đạo là không cần thiết phải thành lập Đoàn Thanh tra mà chỉ cần ra một văn bản yêu cầu Sở Tư pháp đưa cán bộ này đi giám định lại sức khoẻ và chữa bệnh nếu chưa khỏi bệnh.
4. Việc xác minh trong thanh tra tư pháp khác với hoạt động điều tra tội phạm và hoạt động xác minh mang tính hành chính thông thường
+ Mặc dù xác minh trong thanh tra tư pháp và điều tra tội phạm cùng chung mục đích cuối cùng là bảo vệ pháp luật xong xác minh trong thanh tra tư pháp khác với xác minh trong điều tra tội phạm ở một số điểm sau:
– Xác minh trong thanh tra tư pháp thực hiện ở lĩnh vực hành chính tư pháp còn xác minh của cơ quan điều tra được thực hiện trong lĩnh vực tội phạm hình sự;
– Việc xác minh trong thanh tra tư pháp được thực hiện công khai với đối tượng thanh tra, phương pháp điều tra thu thập chứng cứ của Thanh tra viên, cán bộ xác minh cơ bản là công khai (chỉ có một số ít trường hợp là điều tra bí mật); còn xác minh trong điều tra tội phạm được thực hiện hoàn toàn bí mật đối với đối tượng điều tra, chỉ công khai khi đã có Quyết định khởi tố vụ án.
– Xác minh trong thanh tra tư pháp do Thanh tra viên thực hiện độc lập, không bị một cơ quan nào giám sát, còn xác minh điều tra tội phạm do Điều tra viên thực hiện chịu sự giám sát của cơ quan kiểm sát.
- Thu thập chứng cứ trong thanh tra tư pháp là để xem xét đối tượng làm đúng việc gì thì cần phát huy, việc gì làm sai thì cần sửa chữa hoặc xử lý bằng hành chính còn điều tra tội phạm là để chứng minh đối tượng bị điều tra có dấu hiệu phạm tội hay không;
– Xác minh thu thập chứng cứ trong thanh tra tư pháp được tiến hành theo các quy định của pháp luật về thanh tra còn điều tra xác minh tội phạm được tiến hành theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
+ Xác minh trong thanh tra tư pháp cũng khác với xác minh mang tính hành chính thông thường: việc xác minh mang tính hành chính thông thường được tiến hành dựa vào hoạt động xác minh mang tính thủ tục, giấy tờ, công văn giao dịch của các cơ quan, tổ chức liên quan và dựa vào những giấy tờ này để kết luận một vấn đề nào đó, nhưng hoạt động xác minh trong thanh tra tư pháp nhiều trường hợp phải tiến hành xác minh rất cẩn thận, cụ thể, không chỉ đơn thuần dựa vào các giấy tờ giao dịch để kết luận (do đối tượng của thanh tra tư pháp có nhiều đặc thù và lĩnh vực tư pháp cũng bao gồm rất nhiều mảng công việc phức tạp).
V. MỘT SỐ YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGƯỜI LÀM CÔNG TÁC XÁC MINH TRONG THANH TRA TƯ PHÁP
Cán bộ thanh tra làm công tác xác minh trong lĩnh vực tư pháp ngoài những tiêu chuẩn chung được quy định trong pháp luật thanh tra thì còn cần phải có một số yêu cầu phù hợp với đặc thù của ngành như sau:
+ Trong hoạt động xác minh điều tra thu thập chứng cứ, cán bộ tiến hành xác minh chỉ tuân theo pháp luật, không bị chi phối bởi bất cứ ý kiến chủ quan nào; họ phải tìm ra được những chứng cứ xác thực, đúng đắn và chịu trách nhiệm về kết quả xác minh của mình. Do vậy một yêu cầu không thể thiếu đặt ra đối với người làm công tác xác minh, nhất là xác minh trong lĩnh vực tư pháp trước hết đó là cán bộ xác minh phải là người am hiểu và làm đúng pháp luật. Như trên đã nói, lĩnh vực tư pháp bao gồm rất nhiều mảng công việc: thi hành án, công chứng, hộ tịch, quốc tịch, giám định, quản lý luật sư, bán đấu giá tài sản.v.v.. cho nên người làm công tác xác minh muốn hoàn thành tốt công việc đòi hỏi cũng phải có hiểu biết cơ bản về những mảng công việc này, phải nắm được các quy định có liên quan ở một chừng mực nhất định.
+ Do xác minh trong thanh tra tư pháp khác với xác minh điều tra tội phạm nên người cán bộ thanh tra khi tiến hành xác minh tìm hiểu việc làm đúng, sai của đối tượng thanh tra, nhất là đối với những việc làm sai thì cán bộ xác minh phải phân biệt được mức độ, tính chất những sai phạm đó thuộc phạm vi xử lý hành chính hay đến mức độ phải chuyển sang cơ quan điều tra. Muốn vậy, cán bộ xác minh phải nắm được những nội dung cơ bản của luật hình sự: như thế nào là tội phạm hình sự, những yếu tố cấu thành tội phạm, các tội được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành… Nếu không nắm vững được các quy định này thì dễ xảy đến tình trạng xác minh lệch hướng, chồng chéo sang cả lĩnh vực điều tra tội phạm hoặc bỏ sót các chứng cứ lẽ ra thuộc trách nhiệm của mình phải thu thập.
+ Ngoài việc am hiểu các quy định pháp luật, cán bộ làm công tác xác minh còn phải là người có hiểu biết về xã hội, có kỹ năng giao tiếp, ứng xử, có thể tiếp cận với nhiều loại đối tượng khác nhau. Những kỹ năng này rất quan trọng cho việc tiến hành xác minh vì trên thực tế, đối tượng xác minh có thể là nhiều loại người trong xã hội, có những đối tượng có trình độ cao, nắm vững các quy định pháp luật không thua kém cán bộ xác minh cho nên nếu biết cách tiếp cận, nắm bắt tâm lý của đối tượng thì sẽ dễ dàng hơn trong việc thu thập các thông tin có ích cho công việc.
+ Do hoạt động xác minh trong thanh tra tư pháp cũng được thực hiện theo chế độ thủ trưởng (tức là chỉ khi được thủ trưởng giao nhiệm vụ, cán bộ thanh tra mới có quyền tiến hành xác minh chứ không phải bất kỳ một Thanh tra viên hay một cán bộ làm công tác thanh tra nào cũng có quyền xác minh; và cán bộ xác minh phải chịu trách nhiệm trước thủ trưởng về kết quả xác minh của mình, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng) cho nên có một vấn đề đặt ra đối với vai trò của người thủ trưởng cơ quan thanh tra trên cơ sở xem xét, đánh giá sơ bộ nội dung sự việc, vấn đề cần phải xác minh sẽ phải lựa chọn, cử những cán bộ có hiểu biết chuyên sâu hoặc có nhiều kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với công việc cần xác minh để giao tiến hành giải quyết, có vậy việc xác minh mới đạt kết quả tốt.
VI. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH XÁC MINH
Việc xác minh được tiến hành theo các bước sau:
1. Bước 1 – Nghiên cứu hồ sơ
Khi tiến hành một cuộc thanh tra, để tìm hiểu về một vấn đề nào đó còn chưa rõ ràng thì cơ quan thanh tra phải tiến hành xác minh. Bước đầu tiên của quá trình xác minh bao giờ cũng phải là bước nghiên cứu hồ sơ. "Nghiên cứu" chứ không phải là "đọc" hồ sơ vì " nghiên cứu" là một phạm trù bao gồm nhiều thao tác chứ không phải chỉ đơn thuần là đọc các tài liệu, giấy tờ. Muốn nghiên cứu thì trước hết phải đọc tài liệu: tài liệu ở đây tuỳ trường hợp có thể là đơn thư khiếu nại, tố cáo, các văn bản gửi kèm đơn, các văn bản của các cơ quan liên quan đến vụ việc đó, các văn bản pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này hoặc những văn bản chứa nội dung còn chưa được làm sáng tỏ…
Sau khi đọc các tài liệu liên quan đó, cán bộ thanh tra một mặt phải biết tổng hợp, thâu tóm lại các vấn đề, rút ra được những nội dung cơ bản, chính yếu nhất nhưng mặt khác trong từng nội dung cơ bản phải biết mổ xẻ, phân tích các nội dung nhỏ lẻ một cách sâu hơn và toàn diện hơn (tức là phải nắm được các vấn đề một cách có hệ thống). Từ chỗ phân tích sẽ phát hiện ra được các mâu thuẫn, các vấn đề đối lập, các vấn đề còn chưa sáng tỏ. Mâu thuẫn ở đây có thể là mâu thuẫn giữa cái đúng với nhau (ví dụ: trong thanh tra có vấn đề chịu sự điều chỉnh của hai văn bản pháp luật có giá trị hiệu lực ngang nhau của hai ngành khác nhau, quy định không giống nhau, những quy định của hai văn bản này khi áp dụng vào một trường hợp cụ thể nào đó sẽ tạo ra sự mâu thuẫn nhau nhưng không thể khẳng định được văn bản nào quy định sai); mâu thuẫn giữa những cái sai với nhau (ví dụ trường hợp hai đối tượng thanh tra có hai lời khai chúng ta biết là sai với sự thật nhưng trong bản thân hai lời khai này cũng lại mâu thuẫn với nhau; trong trường hợp như vậy nếu biết cách khai thác tốt (ví dụ: tổ chức đối chất) thì chúng ta cũng có thể tìm ra được sơ hở của đối tượng để thu thập các thông tin quan trọng cho công việc của mình); mâu thuẫn giữa cái đúng với cái sai (trường hợp này là bình thường vì bản thân cái đúng với cái sai đã có sự mâu thuẫn nhau). Không suy diễn chủ quan, phải biết định hướng tư duy logic theo đúng phạm vi phản ánh của tài liệu, chứng cứ để nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện và vạch ra hướng xác minh đúng, kế hoạch xác minh khoa học.
2. Bước 2- Lập kế hoạch xác minh
Cán bộ thanh tra sau khi phát hiện được các mâu thuẫn sẽ tiến hành so sánh giữa chúng với nhau và so sánh với các quy định của pháp luật điều chỉnh về những vấn đề này cũng như các tài liệu, thông tin khác (nếu có) để lập kế hoạch, phương thức tiến hành xác minh. Nội dung của kế hoạch này bao gồm: cần xác minh vấn đề gì, vấn đề nào cần xác minh kỹ, vấn đề nào chỉ cần xác minh sơ bộ; xác minh đối với đối tượng nào; thời gian, địa điểm tiến hành (thời gian bắt đầu, thời gian dự kiến kết thúc); cán bộ thực hiện; công cụ hỗ trợ kèm theo cho việc xác minh (máy ghi âm, máy quay phim, chụp ảnh, mẫu biên bản làm việc…)..
Kế hoạch xác minh tuỳ trường hợp, tuỳ mức độ quan trọng của vụ việc mà có thể phải lập bằng văn bản trình thủ trưởng cơ quan thanh tra duyệt trước hoặc có thể chỉ cần thảo luận để có sự thống nhất.
3. Bước 3 – Tiến hành xác minh
Việc tiến hành xác minh có thể dùng nhiều biện pháp, tuỳ từng trường hợp có thể dùng 1 trong các biện pháp sau:
+ Xác minh tại chỗ: là biện pháp xác minh đơn giản nhất, việc xác minh được thực hiện ngay tại nơi đang tiến hành thanh tra hoặc trụ sở cơ quan thanh tra; được áp dụng đối với những trường hợp đơn giản, tính chất vụ việc không phức tạp; cán bộ xác minh chỉ cần nghiên cứu hồ sơ, tài liệu liên quan (trong trường hợp nhất định có thể triệu tập đối tượng thanh tra hoặc những người liên quan đến trụ sở cơ quan thanh tra để giải trình, giải thích về vấn đề còn chưa sáng tỏ) là đã có thể tìm ra được vấn đề cần xác minh.
Ví dụ: trường hợp công dân khiếu nại cơ quan thi hành án tiến hành kê biên, định giá và phát mại tài sản bảo đảm thi hành án không đúng pháp luật thì cơ quan thanh tra có thể chỉ cần xem xét đến các tài liệu trong hồ sơ thi hành án, đối chiếu với các quy định pháp luật về thi hành án và bán đấu giá tài sản là đã có thể kết luận được cơ quan thi hành án bị khiếu nại có làm đúng quy định hay không, đương sự khiếu nại có cơ sở hay không mà không cần thiết phải cử cán bộ đi xác minh trực tiếp tại nơi có khiếu nại.
+ Xác minh bằng công văn: là biện pháp xác minh tại chỗ bằng hình thức công văn đề nghị, công văn yêu cầu của cơ quan thanh tra yêu cầu các đối tượng liên quan cung cấp thông tin cần thiết. Biện pháp này được áp dụng đối với những trường hợp đơn giản, tính chất vụ việc không phức tạp và đối tượng xác minh thường là cơ quan, tổ chức có trụ sở cách xa nơi tiến hành thanh tra, cơ quan thanh tra không có điều kiện (và cũng không thực sự cần thiết) gọi đối tượng xác minh đến để yêu cầu giải trình cũng như không cần đến tận nơi để xác minh.
Ví dụ: Thanh tra công tác thi hành án dân sự của các cơ quan thi hành án thành phố Hà Nội, khi cần xác minh xem Đội thi hành án huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có nhận được uỷ thác của Đội thi hành án quận Ba Đình (là cơ quan thi hành án đang bị thanh tra) hay không (với số tiền uỷ thác để thi hành là 10 triệu đồng xung công quỹ nhà nước) thì cơ quan thanh tra gửi công văn yêu cầu Đội thi hành án huyện Từ Sơn cung cấp các thông tin liên quan đến việc uỷ thác như: đã nhận được uỷ thác chưa?, số quyết định uỷ thác là bao nhiêu?, thời gian nhận được uỷ thác là khi nào?, nội dung được uỷ thác ra sao?, đã tổ chức thi hành việc uỷ thác hay chưa? … chứ không cần thiết phải đến trực tiếp Đội thi hành án Từ Sơn để xác minh.
+ Xác minh bằng công nghệ thông tin: là biện pháp xác minh tại chỗ thông qua mạng máy tính, điện thoại, điện tín, Fax…Ví dụ: khi thanh tra về việc đăng ký kết hôn với người nước ngoài tại thành phố H thì Giám đốc Sở báo cáo không có hiện tượng môi giới kết hôn với người nước ngoài tại địa phương nhưng Thanh tra viên đã dò tìm trên mạng Internet và in ra các trang Web quảng cáo các hình ảnh phụ nữ (với đầy đủ các thông tin về người phụ nữ Việt Nam được mời chào trên mạng sẵn sàng làm vợ người nước ngoài) của các công ty làm môi giới kết hôn giữa người Việt Nam với người nước ngoài có địa chỉ tại thành phố H. Lúc đó Giám đốc Sở mới thừa nhận là có hiện tượng môi giới kết hôn với người nước ngoài tại thành phố H.
+ Xác minh trực tiếp: là biện pháp xác minh mà cơ quan thanh tra phải cử cán bộ đến tận nơi cần xác minh để gặp gỡ, tiếp xúc, tổ chức đối thoại (thậm chí cả đối chất) với đối tượng xác minh để thu thập chứng cứ; được áp dụng đối với những trường hợp tương đối phức tạp xét thấy không thể dùng một trong hai biện pháp kể trên, nếu không xác minh trực tiếp thì không thể làm sáng tỏ vấn đề được.
Ví dụ: Trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, khi nghiên cứu hồ sơ cho và nhận con nuôi phát hiện thấy có điểm mâu thuẫn giữa ngày khai sinh của trẻ cho làm con nuôi với đơn xin nhận con nuôi đích danh của người nước ngoài (đơn được viết trước ngày trẻ sinh ra). Suy luận về mặt lôgic thì điều này là không bình thường vì đơn xin đích danh trẻ em không thể có trước khi trẻ được sinh ra, trường hợp này có biểu hiện của việc hợp thức hoá giấy tờ trong việc xin và nhận con nuôi để che giấu một mục đích nào đó. Do vậy cơ quan thanh tra cần thiết phải tiến hành xác minh. Việc xác minh khi đó không thể thực hiện được bằng biện pháp xác minh tại chỗ cũng như xác minh bằng công văn như trên mà bắt buộc phải bằng biện pháp xác minh trực tiếp. Chỉ có cử cán bộ đến trực tiếp nơi trẻ em sinh ra hoặc cư trú để xác minh thì mới có thể biết được thực chất của việc này là như thế nào, có phải có hiện tượng mua bán trẻ em hay không…
Lưu ý: Không được phép "hình sự hoá" nhưng cũng không thể "hành chính hoá" hoạt động xác minh trong thanh tra tư pháp vì như trên đã nói, hoạt động xác minh trong thanh tra tư pháp khác với hoạt động điều tra tội phạm và xác minh mang tính chất hành chính thông thường. Việc xác minh trong thanh tra tư pháp không nhằm mục đích chứng minh đối tượng thanh tra có dấu hiệu phạm tội hay không nhưng cũng không thể bỏ sót các chứng cứ quan trọng trong quá trình xác minh (vì nếu phát hiện đối tượng thanh tra có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự thì cơ quan thanh tra có trách nhiệm phải chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý). Việc xác minh trong thanh tra tư pháp không thể tiến hành qua loa, đại khái, xác minh chỉ dựa vào mặt hình thức giấy tờ, tài liệu.
4. Bước 4- Đánh giá chứng cứ
Sau khi tiến hành các biện pháp xác minh như trên, để thu thập đầy đủ các chứng cứ, nhiệm vụ tiếp theo của việc tìm ra các thông tin, tài liệu làm chứng cứ là phải biết đánh giá các chứng cứ này, tức là phải rút ra được những nhận xét, khẳng định về từng vấn đề cụ thể cũng như vấn đề chung của việc xác minh là đúng, sai hoặc như thế nào. Việc thu thập chứng cứ là một vấn đề khó nhưng đánh giá đúng đắn các chứng cứ đó lại càng khó hơn. Đánh giá chứng cứ phải hết sức khách quan và toàn diện, phải hiểu rõ tình hình, nhiệm vụ và hoàn cảnh diễn ra trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước của đối tượng xác minh, từ đó đối chiếu giữa chứng cứ với chế độ, quy chế; phân tích giữa tính hợp pháp, hợp lý, hợp tình để rút ra các kết luận đúng, sai, làm rõ nguyên nhân và trách nhiệm của các đối tượng. Đánh giá chứng cứ không nên thiên về một mặt "buộc tội" hoặc "gỡ tội" mà người cán bộ xác minh cần phải thấy vai trò của mình vừa như người công tố viên buộc tội, vừa như người luật sư gỡ tội, có vậy mới tránh được sự giản đơn, phiến diện, máy móc, áp đặt ý kiến chủ quan khi đánh giá chứng cứ.
VI. NHỮNG NGUỒN CHỨNG CỨ CÓ THỂ THU THẬP ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH XÁC MINH
Mục đích của việc xác minh là nhằm thu thập chứng cứ, chứng cứ này chứa đựng trong các nguồn sau:
1. Các văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề cần xác minh (có thể là văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực có chứa vấn đề đó hoặc văn bản áp dụng pháp luật áp dụng riêng lẻ có liên quan):
Những văn bản này là cơ sở pháp lý để đối chiếu giữa việc làm của đối tượng với các quy định của nhà nước. Khi thu thập những văn bản này làm căn cứ, cần lưu ý đến thời hiệu của văn bản cũng như cần biết phát hiện những điểm bất hợp lý hoặc không đúng (nếu có) của văn bản.
2. Các sổ sách kế toán, thống kê, chứng từ, hoá đơn, hợp đồng, báo cáo, vật chứng…Những tài liệu này phản ánh việc thực hiện chính sách, pháp luật cũng như nhiệm vụ, kế hoạch của đối tượng. Khi xem xét loại tài liệu này, phải chú ý thu thập, khai thác tìm ra những vấn đề trọng tâm nhất, phát hiện việc làm đúng, sai của đối tượng vì đây là bằng chứng cụ thể làm cơ sở cho việc đối chiếu với thực tế.
3. Báo cáo, giải trình của đối tượng xác minh
Đối với loại tài liệu này, cần chú ý đến khía cạnh báo cáo mang tính tự giác và không tự giác của đối tượng, khía cạnh đổ lỗi cho khách quan nhưng cũng phải lưu ý đến tình hình, hoàn cảnh thực tế của đối tượng trong một bối cảnh không gian, thời gian cụ thể.
4. Các tài liệu, lời khai, thông tin thu thập được qua các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan, nhất là qua quần chúng nơi tiến hành xác minh vì quần chúng nơi đó là những người gắn bó với thực tế, hiểu rõ thực tế nên nguồn thông tin cung cấp sẽ giúp chúng ta hiểu được những việc làm có thật mà nhiều trường hợp sổ sách giấy tờ không thể hiện hoặc thể hiện không sát với thực tế. Thông thường nguồn thông tin của quần chúng rất phong phú và đa dạng nhưng cán bộ xác minh phải biết hướng quần chúng nói lên sự thật về những vấn đề liên quan mật thiết đến vấn đề cần xác minh, đồng thời biết chọn lọc các thông tin vì thông tin có thể là đúng, nhưng cũng có thể là sai.
5. Kết luận giám định
Khi tiến hành xác minh, nhiều trường hợp có những vấn đề cần làm sáng tỏ thuộc một lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ nào đó mà chúng ta không có đủ điều kiện để chứng minh, kết luận; khi đó chúng ta phải yêu cầu tổ chức giám định hoặc điều tra viên tiến hành giám định. Kết luận giám định là nguồn căn cứ rất có giá trị cho việc xác minh.
6. Tài liệu, biên bản thu thập, xây dựng được qua xác minh
Quá trình xác minh của cán bộ thanh tra phải áp dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ, đối chiếu giữa sổ sách, chứng từ, hợp đồng, tài liệu của đối tượng với thực tế để chứng minh đầy đủ sự thật; các biện pháp xác minh, đối chiếu được thể hiện bằng những hồ sơ, tài liệu, lời khai, biên bản làm việc… qua thu thập sẽ là bằng chứng quan trọng cho việc đánh giá chứng cứ cũng như kết luận sau này.
Phải hết sức chú ý khi thu thập được tài liệu, vật chứng thì phải xác minh làm rõ nguồn gốc của tài liệu vật, chứng đó vì tài liệu, vật chứng chỉ có giá trị là chứng cứ khi chúng có nguồn gốc rõ ràng, hợp pháp. Do đó, khi người cung cấp tài liệu yêu cầu giữ bí mật tên tuổi, bút tích của mình thì cán bộ thanh tra phải biết “chuyển hoá” chứng cứ bằng các phương pháp lấy lời khai người làm chứng, chất vấn đối tượng thanh tra hoặc tổ chức đối chất vv… để hợp pháp hoá nguồn chứng cứ.
VIII. MỘT SỐ KỸ NĂNG TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH XÁC MINH
Như trên đã nói, để tiến hành xác minh, chúng ta có 04 phương pháp xác minh, ở 03 phương pháp đầu (xác minh tại chỗ và xác minh bằng công văn) nhìn chung cách thức tiến hành là đơn giản, do vậy chúng tôi không đề cập lại mà ở đây chúng tôi chỉ nói đến phương pháp xác minh thứ ba- xác minh trực tiếp.
Xác minh trực tiếp có nghĩa là phải gặp gỡ, tiếp xúc, tổ chức đối thoại, đối chất (nếu cần) và nhiều trường hợp phải đấu tranh với đối tượng cần xác minh để thu thập chứng cứ.
Để thu thập được thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá, kết luận sau này, chúng ta có nhiều cách để ghi nhận lại thông tin, có những thông tin, chúng ta chỉ cần nghe để biết nhưng cũng có những thông tin bắt buộc phải được ghi lại bằng các phương tiện lưu giữ như máy quay phim, chụp ảnh, máy ghi âm, biên bản…nhưng phổ biến nhất vẫn là ghi lại thông tin bằng biên bản viết. Tuỳ trường hợp, tuỳ điều kiện mà sử dụng một hoặc kết hợp một số cách trên, nhưng cho dù sử dụng cách nào thì việc thu thập thông tin cũng phải đáp ứng được yêu cầu về tính chính xác, trung thực, đầy đủ và có giá trị làm chứng cứ. Chúng tôi không có điều kiện để truyền đạt tất cả mọi kỹ năng khi sử dụng các phương pháp này mà chỉ xin lưu ý một số điểm được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế làm công tác xác minh như sau:
1. Đối với việc sử dụng máy quay phim, chụp ảnh, máy ghi âm
Không phải trong mọi trường hợp chúng ta đều sử dụng những phương tiện này và việc sử dụng chúng cũng không phải mọi trường hợp đều sử dụng công khai mà cán bộ làm công tác xác minh phải biết đánh giá trường hợp nào thì nên dùng, trường hợp nào thì không; trường hợp nào thì sử dụng công khai, trường hợp nào thì phải sử dụng bí mật.
Ví dụ: xác minh những trường hợp đơn giản thì không cần thiết phải dùng, nhưng xác minh trong trường hợp đối tượng xác minh là người có hiểu biết pháp luật, có trình độ lý luận… thì đòi hỏi việc lấy lời khai, lời chứng phải thật chặt chẽ, đầy đủ, khi đó cán bộ xác minh có thể phải dùng đến các phương tiện này.
2. Đối với việc lập biên bản
Có nhiều cách ghi biên bản trong hoạt động xác minh, nhưng chung quy lại có thể quy về hai cách ghi, ứng với hai loại biên bản sau:
2.1. Biên bản hỏi- đáp:
Đây là biên bản ghi theo dạng nêu từng câu hỏi và từng câu trả lời. Biên bản dạng này được sử dụng trong trường hợp cần đấu tranh trực diện và triệt để đối với đối tượng xác minh để làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên, để có thể sử dụng cách này, đòi hỏi cán bộ xác minh cần có sự chuẩn bị chu đáo trước khi tiến hành hỏi (về kế hoạch hỏi, dự kiến những câu hỏi từ trước, tiên đoán các câu trả lời… đồng thời trong khi hỏi cũng phải biết linh hoạt, sáng tạo khi phát sinh những yếu tố ngoài dự kiến để xử lý một cách mau lẹ, tránh bế tắc).
2.2. Biên bản ghi lời trình bày:
Đây là dạng biên bản ghi theo tính chất tổng hợp, cán bộ thanh tra ghi lại toàn bộ lời trình bày của đối tượng xác minh sau khi đã nêu câu hỏi một cách chính xác, khách quan và trung thực nhất. Lưu ý trong trường hợp này, tuy ghi biên bản theo tính chất tổng hợp nhưng tuyệt đối không được ghi theo cách hiểu riêng, ghi theo ý kiến cá nhân của cán bộ ghi biên bản.
* Yêu cầu đối với việc lập biên bản:
Việc lập biên bản phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
+ Nội dung biên bản phải đảm bảo đủ các thông tin liên quan đến vấn đề cần xác minh (về vấn đề cần xác minh, đối tượng xác minh, nội dung sự việc, thời gian, không gian…); tập trung vào những vấn đề trọng tâm, tránh lan man, lệch hướng nội dung cần xác minh;
+ Biên bản phải được ghi trung thực, không được áp đặt ý muốn chủ quan của cán bộ thanh tra vào nội dung biên bản làm sai lệch nội dung lời khai của người làm chứng hoặc đối tượng thanh tra.
+ Biên bản phải được viết rõ ràng, không viết tắt, không tẩy xoá, nếu là người dân tộc, người nước ngoài thì phải ghi theo phiên dịch bằng ngôn ngữ tiếng Việt, không dùng từ địa phương, từ lóng; sau khi lập xong phải đọc lại cho đối tượng xác minh nghe, yêu cầu ký xác nhận và ghi rõ họ tên (thậm chí phải ghi lại cả địa chỉ nếu cần thiết); biên bản phải ghi rõ thời gian, địa điểm lập và kết thúc. Chú ý nếu biên bản gồm nhiều trang thì phải yêu cầu đối tượng ký, đóng dấu xác nhận (nếu có) vào từng trang của biên bản đó.
+ Tên biên bản (nếu không phải được quy định mẫu bắt buộc) tuỳ trường hợp phải ghi cho phù hợp (ví dụ: Biên bản ghi lời khai của…; biên bản ghi lời trình bày của…; biên bản ghi lời cung cấp thông tin của… – tức là tuỳ theo tư cách của đối tượng tham gia vào việc xác minh mà có các cách ghi tên khác nhau);
+ Việc lập biên bản tuỳ theo đối tượng mà phải chú ý đến kết cấu, tính chặt chẽ, chính xác của ngôn từ (ví dụ: đối với những đối tượng xác minh có trình độ thì phải lập biên bản thật chính xác, tránh kiểu lập sơ sài, qua loa, thể hiện ý tưởng chung chung, không sát với vấn đề vì nếu lập như vậy thì chắc chắn đối tượng xác minh sẽ có nhiều lý do để phản bác lại chúng ta, không làm sáng tỏ được những nội dung chính cần xác minh…) ;
3. Đối với việc tiếp xúc, đối thoại với đối tượng xác minh
Đây là một việc không dễ thực hiện, bởi vì đối tượng xác minh chính là nguồn thông tin quan trọng nhất và những thông tin này là yếu tố quyết định đến kết quả của cả cuộc thanh tra hoặc cuộc xác minh. Trên thực tế, đối tượng xác minh gồm rất nhiều loại người mà với mỗi loại người lại cần phải có một cách tiếp cận riêng. Theo chúng tôi, muốn thực hiện tốt việc tiếp xúc, đối thoại để có thể thu thập được nhiều chứng cứ có giá trị, người làm công tác xác minh ngoài việc phải nắm vững nghiệp vụ và có kế hoạch xác minh cụ thể thì trong nhiều trường hợp còn phải nghiên cứu đến nhân thân của đối tượng cần xác minh (nếu có thể) thông qua nhiều kênh thông tin: có thể hỏi trước những người liên quan, xem xét hồ sơ, lý lịch của người đó… để biết sơ bộ về địa vị, nắm được tác phong, lối sống, quan hệ, tính tình, hoàn cảnh gia đình…Biết được những thông tin này sẽ rất có ích trong quá trình tiếp xúc và khai thác thông tin.
Trong khi tiếp xúc, nhiều trường hợp cán bộ xác minh không nên đi thẳng ngay vào vấn đề mình quan tâm; cũng không nên quá cứng nhắc, khô khan trong cách tiếp xúc. Cán bộ xác minh cần phải biết tạo ra không khí làm việc thoải mái, phải biết lịch sự, mềm mỏng; khi hỏi nên đặt ra những câu hỏi mang tính chất nhẹ nhàng, dễ gần, có nội dung; không nên hỏi theo kiểu hỏi cung. Tuy nhiên, khi gặp phải những vấn đề cần phải làm rõ đúng, sai, cán bộ xác minh cũng phải biết tỏ ra kiên quyết, cứng rắn, biết đấu tranh đến cùng để bảo vệ cái đúng. Cán bộ xác minh cũng phải biết điều chỉnh hướng cuộc tiếp xúc theo ý kiến của mình, không để cho việc tiếp xúc đi lệch hướng đã dự định, nhưng cũng lưu ý tránh việc áp đặt bằng ý chí chủ quan hay xen lẫn tình cảm cá nhân của mình vào công việc. Ngoài ra cũng cần phải chú ý lắng nghe, biết tổng hợp vấn đề, khai thác khéo léo các thông tin, đôi lúc đối với những thông tin quan trọng phải biết khẳng định lại một cách chắc chắn.
Để có kiến thức toàn diện hơn về kỹ năng xác minh, đề nghị độc giả nghiên cứu 03 bài viết “Nghiệp vụ thu thập chứng cứ thanh tra bằng phương pháp lấy lời khai người làm chứng”; “Nghiệp vụ thu thập chứng cứ thanh tra bằng phương pháp chất vấn đối tượng thanh tra” và “Nghiệp vụ thu thập chứng cứ thanh tra bằng phương pháp đối chất” trên trang Web của Bộ Tư pháp theo địa chỉ: http://nghiepvu.moj.gov.vn
Đó là một số kỹ năng sử dụng trong quá trình tiến hành xác minh mà tác giả đúc rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn làm công tác thanh tra tại Thanh tra Bộ Tư pháp. Không có một công thức tuyệt đối nào được áp dụng ở đây mà việc vận dụng các kỹ năng này tuỳ thuộc vào từng cán bộ làm công tác thanh tra và tuỳ từng trường hợp cụ thể để tạo nên sự sáng tạo, linh hoạt nhất, thu được kết quả cao nhất cho công việc.
Cuối cùng, rất mong tiếp nhận những ý kiến phản hồi, trao đổi của đồng chí, đồng nghiệp để cùng nhau xây dựng nghiệp vụ cho Ngành ngày càng hoàn thiện hơn. Mọi chia sẻ thông tin, kiến thức hoặc hỏi đáp, thắc mắc về nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo xin liên hệ theo địa chỉ của tác giả: Hoàng Quốc Hùng – Thanh tra Bộ Tư pháp, Tel: 8231127 & 0913001513 & Email: Hunghq@moj.gov.vn./.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.