TỪ CHỐI CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ DƯỚI GÓC NHÌN CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
BÙI THỊ HẰNG NGA – Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế – Luật Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Quyền SHTT nói chung đã từ lâu được coi là một dạng sở hữu tư nhân. Thông qua các văn bằng bảo hộ được cấp cho các đối tượng SHTT, pháp luật công nhận cho chủ sở hữu quyền SHTT có vị trí độc quyền trong việc sử dụng đối tượng SHTT để bồi hoàn công sức, chi phí mà họ đã bỏ ra và thu lợi nhuận, kể cả hành vi từ chối chuyển giao (cấp phép) quyền SHTT. Việc từ chối chuyển giao quyền SHTT được công nhận dựa trên ba yếu tố: (i) quyền tự do lựa chọn đối tác kinh doanh và định đoạt đối với tài sản của mình; (ii) nghĩa vụ bắt buộc chuyển giao áp dụng trong mọi trường hợp sẽ làm suy yếu (phá bỏ) động cơ đầu tư và sáng tạo; (iii) Tòa án sẽ không là cơ quan thực thi pháp luật khi nghĩa vụ chuyển giao được áp đặt một cách thường xuyên.
Nói cách khác, từ chối chuyển giao quyền SHTT phải được thừa nhận như một trong những quyền cơ bản, cốt lõi của chủ sở hữu quyền SHTT. Mặc dù vậy, trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể nắm giữ quyền SHTT có thể lạm dụng điều này để tác động xấu đến môi trường cạnh tranh, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của người tiêu dùng. Nếu điều đó xảy ra, chủ sở hữu có thể bị tước bỏ quyền này (đổi lại, họ bị bắt buộc phải chuyển giao). Bởi lẽ, trong trường hợp này, khi mục đích hành động nhằm tạo dựng vị thế độc quyền hoặc nhằm duy trì vị thế độc quyền trên thị trường liên quan, bóp méo môi trường cạnh tranh và xâm hại quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT cho bên thứ ba có thể bị xem là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh hoặc luật chống độc quyền.
Tuy nhiên, các trường hợp nêu trên được xem là các trường hợp ngoại lệ thay vì quy định của pháp luật, do đó, nó phải được xem xét, quyết định bởi Tòa án, Cục SHTT và Cơ quan quản lý cạnh tranh. Bởi lẽ, việc xử phạt hành vi từ chối chuyển giao một cách cứng nhắc mà không tính đến các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể sẽ dẫn đến nguy cơ loại trừ động lực đầu tư, sáng tạo của các chủ thể. Điều này không chỉ gây hại cho lợi ích của người tiêu dùng mà còn tác động xấu đến môi trường cạnh tranh, đi ngược lại mục đích của pháp luật cạnh tranh.
1. Quy định của Hiệp định TRIPs
Mặc dù tiếp cận từ chối chuyển giao quyền SHTT là một trong những quyền được bảo hộ theo quy định của pháp luật, nhưng Hiệp định TRIPs cũng đã trao cho các thành viên quyền áp dụng pháp luật cạnh tranh của quốc gia mình nhằm hạn chế các hành vi lạm dụng của chủ thể quyền SHTT, vi phạm pháp luật cạnh tranh quy định tại các Điều 8 và 40 Hiệp định.
Theo quy định của Điều 31(b) Hiệp định TRIPs,“chỉ được cấp phép sử dụng nếu, trước khi sử dụng, người có ý định sử dụng đã cố gắng để được người nắm giữ quyền cấp phép với giá cả và các điều kiện thương mại hợp lý, nhưng sau một thời gian hợp lý, những cố gắng đó vẫn không đem lại kết quả. Yêu cầu này có thể được Thành viên bỏ qua trong tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt cấp bách khác hoặc trong các trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại. Tuy nhiên, trong những trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt cấp bách khác, người nắm quyền phải được thông báo ngay khi điều kiện thực tế cho phép. Trong trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại, nếu Chính phủ hoặc người được Chính phủ uỷ thác, mặc dù không tiến hành tra cứu sáng chế, nhưng biết hoặc có căn cứ rõ ràng để biết rằng Chính phủ hoặc người được Chính phủ uỷ thác đang hoặc sẽ sử dụng mộtsáng chế (patent) đang có hiệu lực thì người nắm quyền phải được thông báo ngay”.
Quy định này cho thấy, các nước thành viên của Hiệp định được quyền đặt ra các quy định khác nhau nhằm điều chỉnh các hành vi lạm quyền SHTT gây cản trở hoạt động thương mại một cách bất hợp lý hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chuyển giao công nghệ quốc tế[1] không loại trừ hoạt động bắt buộc chuyển giao nếu hành vi đó được chứng minh là hành vi lạm quyền của chủ thể nắm giữ quyền SHTT.
Tuy nhiên, điều khó khăn trong thực thi pháp luật là làm thế nào để xác định hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT là một hành vi lạm quyền, bởi lạm quyền sẽ được hiểu là sử dụng quyền của chủ thể trái với mục tiêu của pháp luật. Điều này có nghĩa là hành vi lạm quyền SHTT có một mối quan hệ mật thiết với mục tiêu điều chỉnh của pháp luật SHTT và ở mỗi nước, mục tiêu này sẽ khác nhau. Do đó, ở các nước, tiêu chí xác định hành vi lạm quyền SHTT cũng sẽ khác nhau.
Theo kết quả thực thi pháp luật của các thành viên WIPO (Tổ chức SHTT thế giới), hành vi từ chối chuyển giao có thể được xem là một hành vi lạm quyền khi rơi vào các trường hợp sau:
– Khi hành vi từ chối nhượng quyền dẫn đến việc ngăn cản hoạt động sản xuất các sản phẩm là thành quả của hoạt động phát minh, sáng chế;
– Chủ sở hữu bằng sáng chế không đưa ra được các lý do hợp pháp cho sự ngăn cản đó;
– Điều này tạo ra các rào cản cho việc thiết lập và phát triển hoạt động đầu tư và thương mại quốc gia[2].
Với việc xác định các nguyên tắc thực thi, Hiệp định TRIPs cho phép các thành viên, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của quốc gia mình cũng như mục tiêu điều chỉnh của pháp luật, xác định các tiêu chí rõ ràng đối với hành vi từ chối chuyển giao hay bắt buộc chuyển giao quyền SHTT một cách hiệu quả nhất.
2. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ
Trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, hành vi đơn phương từ chối thỏa thuận là hành vi vi phạm Điều 2 của Đạo luật Sherman về chống độc quyền và bị xem là hành vi vi phạm mặc nhiên[3]. Thế nhưng dưới góc độ thực thi quyền SHTT, các cơ quan có thẩm quyền thường đánh giá các hạn chế (rào cản) trong các thỏa thuận chuyển giao quyền SHTT theo nguyên tắc cân bằng hợp lý (the rule of reason)[4].
Tại Hoa Kỳ, các quy định áp dụng đối với quyền SHTT được áp dụng tương tự như quy định đối với các loại tài sản hữu hình. Do vậy, chủ sở hữu có quyền chọn chuyển giao hay không chuyển giao quyền SHTT của mình cho một chủ thể nhất định. Vì vậy, hành vi đơn phương từ chối chuyển giao quyền SHTT, tùy thuộc vào mức độ tác động của hành vi từ chối đến môi trường cạnh tranh và việc đầu tư, nghiên cứu, sáng tạo, có thể xem xét trong hai trường hợp khác nhau: vi phạm hoặc không vi phạm.
Án lệ Data General Corp. v. Grumman System Support (1st Cir. Mass. 1994)
Theo án lệ này, Công ty Data General, một công ty sản xuất máy tính, đã từ chối cấp bản quyền đối với phần mềm chẩn đoán (phát hiện) lỗi, hư hỏng cho các công ty cung cấp dịch vụ độc lập là đối thủ cạnh tranh của Data General trong lĩnh vực bảo trì và sửa chữa máy tính được sản xuất bởi Data General.
Sau khi xem xét sự việc, Tòa án cho rằng hành động đơn phương từ chối chuyển giao được thực hiện bởi một chủ thể nắm giữ độc quyền bản quyền phần mềm, đồng thời chủ thể nắm giữ bản quyền có ý muốn loại trừ quyền sử dụng phần mềm này của các chủ thể khác là một biện minh hợp pháp cho dù nó có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Bởi lẽ, nghĩa vụ chống độc quyền không có nghĩa là loại trừ các mục tiêu của việc bảo hộ bản quyền của các chủ thể. Do vậy, trong trường hợp này, Tòa án cần phải xem xét thấu đáo vị thế của cả hai chủ thể chứ không nên thiên về bất cứ chủ thể nào. Thay vì bác bỏ hành động của Data General thì Tòa án cần phải điều tra xem liệu hành vi từ chối chuyển giao có tạo nên vị thế độc quyền hay không.
Phán quyết này của Tòa án đã thiết lập nên một nguyên tắc: từ chối chuyển giao bản quyền là hành vi độc quyền hợp pháp.
Tương tự với vụ việc nêu trên, trong vụ việc Xerox[5], Tòa án cũng vận dụng các giải thích như trên khi cho rằng quyền ngăn cấm người khác sản xuất, sử dụng hay bán các sản phẩm có chứa đựng quyền SHTT đã được bảo hộ là quyền đương nhiên mà pháp luật SHTT công nhận cho chủ sở hữu. Do đó, việc từ chối chuyển giao sẽ không bị điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh dù nó có nguy cơ ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh miễn điều đó không vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật SHTT (lạm quyền SHTT)[6].
Trường hợp đối với Kodak[7]: Căn cứ vào các tình tiết tương tự như trên, Kodak (thống lĩnh thị trường) từ chối bán hay chuyển giao các phụ tùng thay thế có chứa đựng quyền SHTT (bản quyền và sáng chế) được bảo hộ cho các máy móc do Kodak sản xuất cho các công ty cung cấp dịch vụ sửa chữa máy móc độc lập. Việc từ chối giao dịch đó đã đẩy các công ty này ra khỏi thị trường. Kodak đã viện dẫn quyền SHTT (bản quyền) được bảo hộ của mình để biện minh cho hành vi từ chối chuyển giao. Tuy nhiên, khác với trường hợp nêu trên, Tòa án Phúc thẩm liên bang số 9 cho rằng, trong trường hợp nêu trên, hành vi của Kodak đã mặc nhiên vi phạm theo quy định tại Điều 2 của Đạo luật Sherman bởi: (i) Kodak không chỉ từ chối bán phụ tùng được bảo hộ theo pháp luật SHTT mà còn cả thiết bị không được bảo hộ; và (ii) Kodak không nêu ra vấn đề bảo hộ quyền tác giả ngay từ đầu[8].
Trong phán quyết này, ý chí chủ quan của chủ sở hữu quyền SHTT trong việc từ chối chuyển giao là yếu tố quan trọng để xem xét hành vi từ chối là hợp pháp hay bất hợp pháp. Vì cả pháp luật SHTT lẫn luật chống độc quyền đều không cho phép một chủ thể nắm giữ quyền độc quyền được phép thực hiện các hành vi phản cạnh tranh bởi các lý do không hợp lý, rõ ràng về mục đích,
Qua các phán quyết nêu trên của Tòa án, có thể thấy rằng, bên cạnh việc hướng đến bảo vệ quyền của chủ thể quyền SHTT trước các cáo buộc vi phạm pháp luật cạnh tranh, Tòa án cũng chưa đưa ra các căn cứ cụ thể nhằm xác định trường hợp hành vi đơn phương từ chối chuyển giao của chủ thể quyền SHTT nào sẽ bị xem là vi phạm pháp luật cạnh tranh. Nói cách khác, trong các trường hợp cụ thể, vấn đề giải thích hợp lý quyết định từ chối chuyển giao sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong các phán quyết của Tòa án Hoa Kỳ.
3. Hệ thống pháp luật châu Âu
Theo quy định của pháp luật châu Âu, trong một số trường hợp cần thiết, Tòa án châu Âu và Ủy ban châu Âu có thể bắt buộc thực hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền SHTT. Nói cách khác, hành vi từ chối chuyển giao của chủ thể quyền SHTT có thể bị xem là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và bị ngăn cấm theo quy định tại Điều 102 TFEU (Hiệp định về hoạt động của Liên minh châu Âu).
Quan điểm này lần đầu tiên được thể hiện tại Án lệ Magill[9]. Trong Án lệ này, Radio Telfis Eireann (RTE) là một công ty có trụ sở ở Dublin và Independent Television Publications Ltd (ITP) là các đài truyền hình phát sóng ở Ireland và Bắc Ireland. RTE tự mình, còn ITV thông qua ITP xuất bản danh sách các chương trình phát sóng hàng tuần của mình. Dựa trên chương trình phát sóng đó, các báo, tạp chí chỉ được phép đăng chương trình phát sóng của RTE và ITV hàng ngày, hay chương trình phát sóng trong hai ngày nếu ngày tiếp theo là ngày lễ, cũng như chỉ có thể đăng các chương trình nổi bật (highlights) trong tuần. Magill muốn xuất bản một danh sách đầy đủ, tổng hợp các chương trình phát sóng hàng tuần của các đài truyền hình nhưng bị RTE, ITP ngăn cản vì việc xuất bản như vậy vi phạm quyền tác giả đối với danh sách các chương trình phát sóng hàng tuần riêng lẽ mà RTE, ITP đã xuất bản. Magill cho rằng, việc không cho phép Magill xuất bản một danh sách tổng hợp trên cơ sở các danh sách các chương trình phát sóng riêng lẻ như vậy là hành vi lạm dụng vị thế độc quyền của RTE, ITP, vi phạm Điều 82 TEC(Hiệp ước thành lập Cộng đồng chung châu Âu), nên đã khiếu nại lên Uỷ ban châu Âu. Sau khi xem xét vụ việc, Uỷ ban châu Âu kết luận hành vi của RTE, ITP vi phạm Điều 82 TEC và buộc chấm dứt bằng cách phải cung cấp cho bên thứ ba (khi có yêu cầu) danh sách chương trình truyền hình hàng tuần của mình và cho phép bên thứ ba xuất bản danh sách các chương trình đó. Bởi hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT của RTE, ITP đối với Magill là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vì: (i) việc từ chối ngăn cản sự xuất hiện một sản phẩm mới mà khách hàng tiềm năng có nhu cầu; (ii) không có sự giải thích hợp lý cho việc từ chối; (iii) sự từ chối đó đã loại bỏ tất cả các đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường thứ cấp và dành thị trường đó cho riêng mình[10].
Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong Án lệ IMS Health[11]. IMS Health là công ty công ty theo dõi và cung cấp thông tin liên quan đến việc mua bán dược phẩm ở Đức trên cơ sở sử dụng “cấu trúc 1860 vùng”. Cấu trúc này chia nước Đức thành 1860 vùng, và mỗi “vùng” là tập hợp rất nhiều tiêu chuẩn của một vùng, như mật độ dân số, diện tích, mã bưu điện, các điểm giao thông, sự bố trí địa lý của các nhà thuốc, bệnh viện… IMS Health bán các thông tin về mua bán dược phẩm được phân chia thành các vùng như vậy để giúp cho khách hàng có một bức tranh tổng thể, thực tế về thị trường cần theo dõi và “cấu trúc 1860 vùng” được bảo hộ như cơ sở dữ liệu (database) theo pháp luật về quyền tác giả của Đức. Do đó, IMS Health là công ty duy nhất hoạt động trong việc cung cấp thông tin về mua bán dược phẩm ở Đức.
Từ năm 1999, các đối thủ của ISM Health đã thâm nhập thị trường, cung cấp thông tin bằng cách chia thị trường Đức với nhiều cách phân chia khác nhau, nhưng đã không thành công và họ quyết định sử dụng “cấu trúc 1860 vùng” hoặc cấu trúc tương tự như thế. IMS Health đã khởi kiện đối thủ cạnh tranh (cụ thể là NDC) đã vi phạm quyền SHTT của mình và kết quả là Tòa án của Đức đã cấm NDC sử dụng “cấu trúc 1860 vùng” hoặc cấu trúc tương tự vì nó vi phạm quyền tác giả đã được bảo hộ. Bên cạnh đó, IMS Health cũng từ chối cho phép đối thủ của mình sử dụng cấu trúc này. Sau đó, NDC đã khiếu nại vụ việc lên Ủy ban châu Âu. Sau khi xem xét nội dung vụ việc, Tòa án Liên minh châu Âu cho rằng, việc IMS Health từ chối cho phép NDC sử dụng “cấu trúc 1860 vùng” là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo Điều 82 TEC và Điều 102 TFEU (Hiệp định về hoạt động của Liên minh châu Âu) với các dấu hiệu: Quyền tác giả là yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh; Việc từ chối chuyển giao ngăn cản việc xuất hiện của các sản phẩm mới mà khách hàng tiềm năng có nhu cầu; Không có lý do chính đáng cho hành vi từ chối chuyển giao; Hành vi từ chối chuyển giao triệt tiêu mọi cạnh tranh trên thị trường thứ cấp[12].
Tóm lại, thông qua các án lệ nêu trên, trong hệ thống pháp luật châu Âu, hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT sẽ bị xem là hành vi lạm dụng quyền SHTT và sẽ bị ngăn cấm khi nó chứa đựng các dấu hiệu sau: hành vi của người nắm quyền cấu thành nên hành vi từ chối cấp phép (chuyển giao); người nắm quyền có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan; quyền SHTT là hoàn toàn cần thiết để thực hiện hoạt động kinh tế trong thị trường thứ cấp; từ chối chuyển giao có tác động bóp méo thị trường thứ cấp; từ chối chuyển giao không có cơ sở khách quan và yêu cầu trách nhiệm về nghĩa vụ chuyển giao không ảnh hưởng tiêu cực đối với việc khuyến khích đầu tư lâu dài và sáng tạo; từ chối chuyển giao ngăn cản sự xuất hiện của sản phẩm mới mà khách hàng tiềm năng có nhu cầu hoặc bắt buộc chuyển giao là hoàn toàn cần thiết cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo tiếp theo[13].
4. Quy định của pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, hoạt động thực thi quyền SHTT nói chung và chuyển giao công nghệ nói riêng được điều chỉnh bởi Luật SHTT và Luật Chuyển giao công nghệ. Chủ sở hữu công nghệ có quyền chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ[14]. Nói cách khác, quyền thực hiện chuyển giao hay không chuyển giao quyền SHTT cho các chủ thể khác nhau là quyền cơ bản, chủ yếu mà văn bằng bảo hộ được cấp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật SHTT công nhận cho chủ thể nắm giữ; ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ như trường hợp bắt buộc chuyển giao dây chuyền sản xuất vacxin phòng ngừa cúm H5N1.
Sự việc bắt buộc chuyển giao Tamiflu
Năm 2005, Việt Nam rơi vào đại dịch cúm gia cầm. Để đối phó với đại dịch này và theo cảnh báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Chính phủ Việt Nam đã đặt 25 triệu viên thuốc Tamiflu ở Công ty F Hoffmann – La Roche Ldt, chủ thể nắm quyền sáng chế sản xuất thuốc Tamiflu để điều trị bệnh cúm gia cầm H5N1. Tuy nhiên, Công ty dược phẩm này đã không có khả năng cung ứng cho đơn đặt hàng nêu trên.
Trước tình hình đó, tháng 11/2005, Bộ Y tế đã gặp Công ty La Roche Ldt và yêu cầu chuyển nhượng quyền sản xuất Tamiflu cho các doanh nghiệp Việt Nam, để Việt Nam có đủ thuốc đối phó với dịch cúm gia cầm trong thời gian tới.
Sau buổi gặp mặt này, Công ty La Roche Ldt đã đồng ý nhượng quyền sản xuất thuốc Tamiflu cho Việt Nam nhưng sẽ tự lựa chọn công ty đủ năng lực sản xuất, hoạt động sau hai tháng ký kết. Cùng với việc đồng ý nhượng quyền sản xuất thuốc Tamiflu, La Roche Ldt cũng đồng ý xuất 25 triệu viên mà Việt Nam đặt hàng. Số thuốc này sẽ được chuyển đến Việt Nam theo 3 giai đoạn: từ tháng 11 đến cuối năm 2005 (2 triệu viên); từ tháng 1 – 30/6/2006 (8 triệu viên) và từ tháng 7 – 12/2006 (15 triệu viên)[15].
Đây là một trong những trường hợp chứng minh rằng, trong một số trường hợp nhất định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền yêu cầu chuyển giao quyền SHTT bất kể ý chí chủ quan của chủ thể nắm quyền đồng ý hay không. Điều này, được quy định cụ thể trong Luật SHTT năm 2005:
1. Trong các trường hợp sau đây, quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không cần được sự đồng ý của người nắm độc quyền sử dụng sáng chế:
a) Việc sử dụng sáng chế nhằm mục đích công cộng, phi thương mại, phục vụ quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội;
b) Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế quy định tại khoản 1 Điều 136 và khoản 5 Điều 142 của Luật này sau khi kết thúc bốn năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký sáng chế và kết thúc ba năm kể từ ngày cấp Bằng độc quyền sáng chế;[16]
c) Người có nhu cầu sử dụng sáng chế không đạt được thoả thuận với người nắm độc quyền sử dụng sáng chế về việc ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế mặc dù trong một thời gian hợp lý đã cố gắng thương lượng với mức giá và các điều kiện thương mại thoả đáng;
d) Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.
Quy định nêu trên phù hợp với nội dung của Hiệp định TRIPs nhằm loại trừ các hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT khi nó có tác động tiêu cực đến lợi ích cộng đồng, bóp méo thị trường, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, nếu pháp luật và cơ quan thực thi quá lạm dụng các quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với quyền SHTT thì sẽ gây tác động không tốt đến việc khuyến khích nghiên cứu, đầu tư sáng tạo tại Việt Nam. Do vậy, việc xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng trong lĩnh vực SHTT là việc cần thiết nhằm cân bằng lợi ích của các chủ thể.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, quyền của chủ thể liên quan đến hành vi chuyển giao quyền SHTT sẽ bị hạn chế (Tòa án sẽ bắt buộc chuyển giao) khi chứng minh được rằng hành vi đó được xem là hành vi hạn chế cạnh tranh .“… Hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và tập trung kinh tế”[17].
Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, một trong những yếu tố quan trọng để xác định một chủ thể có vị trí thống lĩnh đó chính là thị phần. Theo đó, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể[18]. Đồng thời, khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường liên quan được xác định dựa vào một hoặc một số căn cứ chủ yếu sau đây:
1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2. Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
3. Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp.
4. Năng lực tài chính của công ty mẹ.
5. Năng lực công nghệ.
6. Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
7. Quy mô của mạng lưới phân phối[19].
Với quy định nêu trên, chỉ cần chủ thể (doanh nghiệp) nắm giữ quyền SHTT có vị trí thống lĩnh trên thị trường thực hiện hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT thì bị xem là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh[20]. Nói cách khác, hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT sẽ bị xem là hành vi vi phạm mặc nhiên theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động đầu tư sáng tạo của các chủ thể. Do đó, để đánh giá tác động của hành vi từ chối chuyển giao, chúng ta phải xem xét khía cạnh sau: (i) ảnh hưởng của nó đến thị trường cạnh tranh và (ii) tác động của nó đối với hoạt động đầu tư, sáng tạo.
Chúng tôi cho rằng, để cân bằng lợi ích của các chủ thể, thay vì nguyên tắc vi phạm mặc nhiên theo cách thức tiếp cận của pháp luật cạnh tranh hiện hành, cần phải xem xét, đánh giá tính hạn chế cạnh tranh của hành vi từ chối chuyển giao trên nguyên tắc cân bằng hợp lý. Theo đó, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của Hoa Kỳ, của châu Âu (EU) khi xem xét hành vi từ chối chuyển giao quyền SHTT trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh, theo hướng thừa nhận quyền từ chối chuyển giao là một trong những quyền cơ bản của chủ thể nắm quyền và việc thực hiện quyền đó chỉ bị xem là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khi nó tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, bóp méo thị trường và ảnh hưởng đến quá trình đầu tư sáng tạo cũng như lợi ích chung của người tiêu dùng thông qua các dấu hiệu: Hành vi của người nắm quyền cấu thành nên hành vi từ chối cấp phép (chuyển giao); người nắm quyền có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan; quyền SHTT là hoàn toàn cần thiết để thực hiện hoạt động kinh tế trong thị trường thứ cấp; từ chối chuyển giao có tác động bóp méo thị trường thứ cấp; từ chối chuyển giao không có cơ sở khách quan và yêu cầu trách nhiệm về nghĩa vụ chuyển giao không ảnh hưởng tiêu cực đối với việc khuyến khích đầu tư lâu dài và sáng tạo; từ chối chuyển giao ngăn cản sự xuất hiện của sản phẩm mới mà khách hàng tiềm năng có nhu cầu hoặc bắt buộc chuyển giao là hoàn toàn cần thiết cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo tiếp theo./.
[1] Điều 8.2 Hiệp định TRIPs: “Có thể cần đến những biện pháp phù hợp, miễn là không trái với các quy định của Hiệp định này, để ngăn ngừa sự lạm dụng các quyền SHTT bởi những người nắm quyền hoặc ngăn chặn các hành vi gây cản trở hoạt động thương mại một cách bất hợp lý hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chuyển giao công nghệ quốc tế”.
[2]Jose Espinosa (2014), Unilateral Refusal To License Intellectual Property Rights – A Comparative Perspective.
[3] Điều 2 Đạo luật Sherman quy định “người nào độc quyền hoặc nỗ lực độc quyền, kết hợp hoặc thỏa thuận với người khác để độc quyền trong hoạt động kinh doanh hoặc thương mại giữa các tiểu bang hoặc với các quốc gia nước ngoài sẽ bị xem là vi phạm nghiêm trọng”.
[4]Nguyên tắc hợp lý là học thuyết tư pháp cho rằng, một hành vi thương mại vi phạm luật Sherman chỉ khi hành vi thương mại đó là một “rào cản thương mại bất hợp lý”, dựa trên các yếu tố kinh tế cụ thể trong vụ việc được xem xét.
[5] CSU, L.L.C. v. Xerox Corp.
[6]Research Handbook on Intellectual Property and Competition Law, published by Edward Elgar publishing limited 2008, p. 218.
[7]Image Technical Service v. Eastman Kodak Co (9th cir. Cal. 1997).
[8]Nguyễn Thanh Tú (2010), “Pháp luật cạnh tranh chuyển giao công nghệ và Hiệp định TRIPs kinh nghiệm cho Việt Nam:, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 224.
[9]ECJ, C-241/91P& C-242/91P, Radio Telefis Eireann (RTE) and Independent Television Publication Ltd (IPT) v Commission Of The European Communities, 06/401995 (Magill).
[10]Nguyễn Thanh Tú (2010), “Pháp luật cạnh tranh chuyển giao công nghệ và Hiệp định TRIPs kinh nghiệm cho Việt Nam”, tlđd, tr. 225.
[11]IMS Health GmbH & Co.OHG v. NDC Health GmbH & Co.KG.
[12]Research Handbook On Intellectual Property And Competition Law, Published by Edward Elgar Publishing Limited 2008.
[13]Research Handbook On Intellectual Property And Competition Law, Published by Edward Elgar Publishing Limited 2008.
[14]Điều 8 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006.
[15]http://vnn.vietnamnet.vn/xahoi/doisong/2005/11/509533/, truy cập ngày 20/2/2017.
[16]Khoản 1 Điều 135 quy định “1. Chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc áp dụng quy trình được bảo hộ để đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội. Khi có các nhu cầu quy định tại khoản này mà chủ sở hữu sáng chế không thực hiện nghĩa vụ đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác mà không cần được phép của chủ sở hữu sáng chế”.
Điều 142. Hạn chế việc chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
“Khoản 5: …Bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền có nghĩa vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế theo quy định”.
[17]Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004.
[18]Khoản 3 Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2004.
[19]Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh năm 2004.
[20]Điều 13 Luật Cạnh tranh quy định:
“ các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm:
…..
3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;” …
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/tu-choi-chuyen-giao-quyen-so-huu-tri-tue-duoi-goc-nhin-cua-phap-luat-canh-tranh
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.