Câu hỏi của khách hàng: Quen biết với người mua trả góp không trả thì có liên quan gì không?
Cho em hỏi vấn đề này ạ, chuyện là em có quen chị H này 1 năm trước khi làm ở công ty cũ, nhưng em đã nghỉ việc ở công ty đó 6 tháng rồi, và cũng không còn liên lạc gì với chị đó.. Cách đây 2, 3 tháng em có nhận được cuộc gọi của bên vay mua điện thoại trả góp X báo là chị H này mua trả góp mà tới hạn không trả, em vừa bất ngờ vừa sợ không biết sao, em có nói là em Không còn liên lạc với chị này nữa, nhưng bên X cứ gọi hoài, và em không bắt máy, đến nay thì em nhận được tin này… Em không biết em có liên quan gì không??? Và em có bị pháp luật truy tố gì không nữa… Mọi người giúp em với
Luật sư Tư vấn Bộ luật dân sự – Gọi 1900.0191
Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.
1./ Thời điểm tư vấn: 06/03/2019
2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Trách nhiệm khi không nghe điện thoại của bên thứ ba
- Bộ luật dân sự năm 2015;
- Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình
3./ Luật sư trả lời Quen biết với người mua trả góp không trả thì có liên quan gì không?
Theo thông tin bạn cung cấp thì H (một người quen của bạn) có thực hiện việc mua trả góp một chiếc điện thoại, đến nay không hoàn thành nghĩa vụ trả tiền. bên bán có liên lạc với bạn, và do bị làm phiền, bạn đã không nghe cuộc gọi của bên bán. Trách nhiệm của bạn còn tùy thuộc vào tư cách của bạn trong hợp đồng mua trả góp giữa H và bên bán X.
Trong đó, bạn cần xác định, bạn có phải là bên bảo đảm cho việc trả khoản tiền mua chiếc điện thoại của H trong hợp đồng giữa H và bên bán X hay không. Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn không hề biết việc H mua trả góp chiếc điện thoại với bên X cho tới khi nhận được điện thoại của bên bán X. Do vậy, có thể xác định, bạn không phải là bên đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trả hết số tiền mua điện thoại của H. Vì vậy, bạn không có nghĩa vụ phải trả số tiền h còn thiếu cho bên X.
Tuy nhiên, nếu bên X có đơn trình báo phản ánh việc H không trả hết số tiền theo hợp đồng mua trả góp và có hành vi bỏ trốn hoặc tương tự và bạn có xuất hiện trong đơn trình báo thì chủ thể có thẩm quyền giải quyết đơn trình báo (công an xã) vẫn sẽ tiến hành liên lạc với bạn và có phiên làm việc, lấy tường trình,… của bạn về sự việc trên. Nếu qua quá trình điều tra, làm việc mà bên chủ thể có thẩm quyền xác minh được bạn không phải là bên bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả hết tiền của H trong hợp đồng mua trả góp điện thoại giữa H và bên X thì bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm hành chính/hình sự vì hành vi không trả số tiền còn thiếu của H cho bên X.
Trong trường hợp bạn là bên bảo đảm cho việc H sẽ trả hết số tiền cho bên X nhưng hiện giờ lại có hành vi trốn tránh, không công nhận,… thì hành vi của bạn bị coi là hành vi chiếm đoạt tài sản của bên X, và khi đó, tùy thuộc vào hành vi cụ thể của bạn, bạn sẽ phải chịu những trách nhiệm nhất định về hành chính hoặc hình sự. Giả sử, với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người có hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự:
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a)Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b)Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
…”
Trường hợp hành vi không đủ mức cấu thành tội hình sự, người có hành vi sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
“Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác
1.Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
…
c)Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;
…”
Như vậy, trong trường hợp của bạn, khi bạn không biết về việc H có hành vi mua điện thoại trả góp của bên X thì việc bạn không chấp nhận yêu cầu của bên X sẽ không làm phát sinh trách nhiệm hình sự/hành chính nào cho bản thân bạn.
Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.