ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra đóng một vai trò vô cùng quan trọng, phát hiện những dấu hiệu tội phạm, có hay không hành vi phạm tội nhằm khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đưa tội phạm ra trước pháp luật.
Trong giai đoạn này, nếu CQĐT là cơ quan tiến hành thu thập chứng cứ làm rõ tội phạm và người phạm tội thì VKS lại thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động của chính CQĐT. Một mặt kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo cho vụ án được rõ ràng, minh bạch, đúng người đúng tội đúng pháp luật, một mặt VKS chủ động trong việc điều tra, phát hiện tội phạm.
Tuy nhiên việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra vẫn tồn tại nhiều hạn chế, vướng mắc gây nhiều khó khăn cho công tác thực hiện. Do đó việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề về quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra không những góp phần nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm sát nói riêng mà còn đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp trong thời đại mới.
Vì vậy nghiên cứu đề tài : “Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra” là cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong giai đoạn điều tra dưới góc độ của luật TTHS.
Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung nghiên cứu chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra VAHS. Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử, truy tố, giai đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đề tài chỉ đưa ra quan điểm, kiến nghị mang tính nguyên tắc, phương hướng hoàn thiện các quy định của BLTTHS liên quan đến chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra.
- Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích chức năng của VKS theo BLTTHS 2003 và thực tiễn thực hiện những chức năng đó trong 5 năm (từ năm 2008–2012).
3.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng các phương pháp so sách, lôgíc, phân tích, chứng minh và tổng hợp.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ các khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đi sau phân tích những quy định của luật TTHS Việt Nam về thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra; thực trạng áp dụng những quy định này. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra.
Để đạt được mục đích trên, khóa luận phải giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu khái quát về chức năng của VKS nói chung và chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra nói riêng.
- Làm sáng tỏ sự khác biệt và mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra
- Nêu được những thực trạng trong việc thực hiện chức năng của VKS ở giai đoạn điều tra. Đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật để khắc phục những hạn chế. Từ đó giúp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng của VKS trong giai đoạn này.
5.Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung bao gồm 3 chương:
- Chương 1 : Một số vấn đề chung về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
- Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
- Chương 3: Thực trạng thực hiện chức năng của VKS – Những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
I. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
Thuật ngữ “chức năng” theo tiếng La-ting là “functio” được hiểu là “nhiệm vụ, công dụng và vai trò” hay được định nghĩa : “1. Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ thống nào đó trong cơ thể; 2. Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người, một cái gì đó”. Theo từ điển Luật học – NXB Bách Khoa từ điển Việt Nam, “chức năng” là phương diện hoạt động chủ yếu của một thiết chế (cơ quan, tổ chức).[24,tr.162]
Chức năng của cơ quan Nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu có tính chất cơ bản và lâu dài, nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để phục vụ việc thực hiện chức năng chung của bộ máy Nhà nước.
Trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước giao cho mỗi cơ quan có chức năng khác nhau để hoạt động như chức năng quản lý hành chính Nhà nước, chức năng tư pháp. Tuy nhiên để cho những cơ quan này hoạt động một cách nhịp nhàng, chính xác và hiệu quả đòi hỏi phải có một cơ quan nắm vai trò kiểm tra giám sát. Chức năng này được Nhà nước giao duy nhất cho VKS. Từ đó có thể khẳng định rằng VKSND là một mắt xích quan trọng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước.
Trong TTHS, ngoài chức năng kiểm tra giám sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, Nhà nước còn giao cho VKS chức năng buộc tội hay còn gọi là chức năng thực hành quyền công tố.
Điều này được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức VKSND 2002. Trong Điều 23 BLTTHS 2003 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, VKS thực hiện triệt để những chức năng của mình để đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng thội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời đảm bảo cho quá trình điều tra diễn ra khách quan, toàn diện, nghiêm minh, kịp thời theo quy định của pháp luật.
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc các nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu tránh nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử [8,tr 40].
Trong giai đoạn điều tra, thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố VAHS cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra, ra bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra kèm quyết định đình chỉ điều tra nhằm thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án. Khi tìm hiểu về phạm vi thực hành quyền công tố, cần lưu ý: không phải trong mọi trường hợp quyền công tố đều kéo dài đến tận khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà nó có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn, theo quy định của pháp luật TTHS. Nghĩa là, không phải mọi vụ án đều được xét xử trước Tòa án.
Vì vậy khi quyền công tố bị triệt tiêu thì thực hành quyền công tố cũng không còn. Những căn cứ dẫn đến triệt tiêu quyền công tố và theo đó dẫn đến chấm dứt việc thực hành quyền công tố như: căn cứ đình chỉ điều tra (Điều 164 BLTTHS); đình chỉ vụ án (Điều 169 BLTTHS), rút quyết định truy tố (Điều 181 BLTTHS).
Nội dung thực hành quyền công tố gồm những biện pháp cụ thể do luật TTHS quy định để VKS thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bao gồm: Các hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn khởi tố như khởi tố vụ án, yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án; các hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra bao gồm: khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của VKS được quy định tại Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân 2002. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo cho pháp luật Tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm minh.
Theo quy định của luật tổ chức VKSND 2002 thì đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp (CQĐT, cơ quan tòa án, cơ quan thi hành án), các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các tổ chức cá nhân có trách nhiệm hoặc liên quan đến giải quyết VAHS. Cần lưu ý rằng kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể khác trong tố tụng hình sự, không bao hàm việc kiểm tra hướng dẫn của VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới.
Khi tiến hành hoạt động này, VKS phải căn cứ vào Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, xem xét đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát, cũng như để đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của chính các hoạt động kiểm sát của VKS.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi VAHS được khởi tố (một số trường hợp có thể được tiến hành trước khi khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án) và kết thúc khi VKS quyết định việc truy tố; hoặc khi vụ án được đình chỉ, tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật.
II. Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong giai đoạn điều tra.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra VAHS là hai chức năng độc lâp nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện hai chức năng này, VKS các cấp luôn quán triệt đường lối công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm đồng thời không được làm oan người vô tội.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra sẽ làm tiền đề cho hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác và chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện sẽ là tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát. Nếu có sai sót, vi phạm trong việc thực hiện chức năng kiểm sát sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thực hành quyền công tố.
Ví dụ: Khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của CQĐT thì làm phát sinh hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tạm giữ người bị bắt của CQĐT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh hoặc có quyết định phê chuẩn của VKS, đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật.
Mối quan hệ giữa hai chức năng ấy ở giai đoạn điều tra là mối quan hệ biện chứng, có tác dụng hỗ trợ nhau, chúng song song tồn tại và có sự độc lập tương đối nhưng không tách rời. Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra là chứng minh tội phạm và người phạm tội còn mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn này là đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật quy định.
Như vậy cả hai chức năng này đều nhằm tới mục đích chung là đảm bảo cho mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật có hiệu quả là điều kiện đảm bảo thực hành quyền công tố chính xác, khách quan và ngược lại.
Thông qua mối quan hệ với các hoạt động thực hành quyền công tố, các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra VAHS tác động qua lại, độc lập tương đối những chặt chẽ không tách rời. Làm rõ mối quan hệ giữa chúng giúp ta có nhận thức đúng đắn và đầy đủ, khách quan về quyền công tố, thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra.
III. Ý nghĩa của việc quy định chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra.
Việc quy định chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng. Đây là sự ghi nhận về mặt pháp lý, tạo cơ sở cho VKS tiến hành những hoạt động cần thiết để thực hiện nhiệm vụ mà Nhà nước đã giao cho. Trong giai đoạn điều tra, với việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sất các hoạt động tư pháp, không những là điều kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình thực hiện một loạt các hành vi TTHS của cơ quan điều tra mà còn là cơ sở đảm bảo cho việc truy tố được khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Nếu không có những quy định này, VKS không thể nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội cũng như không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Lúc này việc giám sát tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được thực hiện thông qua cơ chế tự kiểm tra, giám sát, khi phát hiện và xử lý những vi phạm sẽ không triệt để và khách quan. Việc BLTTHS quy đinh hai chức năng của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp chính là đảm bảo sự nghiêm minh của Nhà nước, của pháp luật.
Việc quy định cho VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp còn thể hiện tính ưu việt của Nhà nước khi mà những quyền cơ bản của công dân được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm, vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến hậu quả bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho các quyền, tự do của công dân được tuân thủ và thực thi một cách hiện thực, chống lại các hành vi xâm phạm xuất phát từ sự lạm quyền hoặc vô trách nhiệm của cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
So với nhiều cơ quan nhà nước khác, VKS với vị trí, chức năng và nhiệm vụ của mình có khả năng to lớn trong việc bảo vệ quyền con người, ngăn chặn vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích bị vi phạm, yêu cầu áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm. Tham gia vào giai đoạn điều tra, VKS thực hành quyền công tố để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân, chống lại hành vi tội phạm, đồng thời thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật của CQĐT nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những công dân tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự với những tư cách khác nhau như người bị hại, người làm chứng, giám định viên, bị can, bị cáo, người bị tạm giữ.
Trong giai đoạn điều tra, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, hạn chế các quyền tự do hiến định của công dân như bắt, tạm giam, tạm giữ là cần thiết và có tính phổ biến nhưng việc áp dụng những biện pháp này phải trên cơ sở các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Phê chuẩn của VKS là bảo đảm cần thiết loại trừ những trường hợp hạn chế các quyền tự do của công dân không có căn cứ và không đúng với quy định của BLTTHS.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, mỗi cơ quan đều được giao một chức năng riêng để thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Trong hệ thống cơ quan đó, VKS là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì chức năng của VKS cũng có những thay đổi nhất định sao cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và các mục tiêu khác của toàn xã hội.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt trong giai đoạn điều tra thì hai chức năng này được thể hiện thông qua các hoạt động cơ bản mà pháp luật quy định. Chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đóng vai trò đảm bảo cho việc truy tố đúng người đúng tội. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp đảm bảo cho quá trình điều tra được diễn ra khách quan, trung thực, đúng pháp luật. Hai chức năng này tuy có đối tượng áp dụng, phạm vi điều chỉnh khác nhau nhưng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau và đều ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra VAHS.
Việc Nhà nước quy định cho VKS có những chức năng trên mang ý nghĩa quan trọng. Chính những cơ sở pháp lý này tạo nền tảng cho VKS tiến hành những hoạt động cần thiết và có hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của giai đoạn điều tra. Điều này cũng thể hiện rõ sự nghiêm minh của Nhà nước trong việc kiên quyết phát hiện và truy tố tội phạm cũng như tính ưu việt của Nhà nước ta đối với việc tôn trọng những quyền cơ bản của công dân trên tinh thần Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân.
Tham khảo thêm:
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.