Vận dụng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản để nêu ra các giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và đã trở thành một tài sản tinh thần của báu của Đảng và dân tộc. Trong di sản tư tưởng mà Hồ Chí Minh để lại, những luận điểm của Người về Đảng Cộng sản là một phần cực kỳ quan trọng. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm đổi mới và chính đốn Đảng, làm cho Đảng thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta. Để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài số 5: “Vận dụng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản để nêu ra các giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản:
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam:
1.1. Cơ sở tư tưởng – lý luận:
Nghiên cứu một cách sâu sắc quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đến thế kỷ XIX ở tây Âu, Mác và Ăngghen đặt sự quan tâm chủ yếu của mình vào vấn đề thành lập Đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đến thời kỳ Lênin, chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt ra một cách bức thiết, cách mạng vô sản trở thành nhiệm vụ trực tiếp. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản là đập tan chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác và phát triển sáng tạo các luận điểm của Mác và Ăngghen về Đảng để thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Lênin là người đáp ứng được yêu cầu lịch sử đặt ra. Người đã xây dựng thành một hệ thống những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của Lênin là cơ sở có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về chính đảng cách mạng để đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Người đã nêu ra nhiều luận điểm mới làm phong phú thêm học thuyết Mác – Lênin về chính đảng cách mạng ở những nước thuộc địa mà sinh thời Mác và Ăngghen chưa có điều kiện để đi sâu nghiên cứu, còn Lênin cũng mới đề cập ở một chừng mực nhất định.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
a. Thực tiễn Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta làm cho xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Đứng trước yêu cầu khách quan của lịch sử, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam đã xuất hiện nhiều trào lưu cứu nước như phong trào “Cần vương” (1883 -1896); phong trào khởi nghĩa của nông dân chống Pháp ở Yên Thế (1887-1913); Phong trào cứu nước mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản của các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Nhưng tất cả các phong trào cứu nước đó đều bị thất bại. Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và Người đã chỉ rõ một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam là thiếu một tổ chức cách mạng có đường lối chính trị đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, phù hợp để tổ chức, tập hợp và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống bọn đế quốc và phong kiến tay sai, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Mặt khác, những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu… cũng giúp cho Hồ Chí Minh tiếp tục xây dựng, củng cố và phát triển tư tưởng của mình về Đảng Cộng sản Việt Nam.
b. Thực tiễn cách mạng thế giới.
Trong quá trình đi tìm con đường cứu nước, Hồ chí Minh rất chú ý xem xét những vấn đề về chính đảng cách mạng.
Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp dạy cho chúng ta:
1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh…
2. Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công…”[1]
Hồ Chí Minh cũng giành nhiều tâm sức vào khảo cứu cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga 1917, cuộc cách mạng do giai cấp công nhân, mà đội tiền phong của nó là Đảng Bônsêvích (cộng sản) Nga lãnh đạo và giành thắng lợi. Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công phải lấy dân chúng (công, nông) làm gốc, phải có đảng bền vững…”
Từ đó Người đã rút ra được những bài học quý báu về xây dựng Đảng. Những cơ sở tư tưởng – lý luận và thực tiễn nói trên góp phần quan trọng vào việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm láo có vững thuyền mới chạy” ( trích trong cuốn sách Đường cách mệnh xuất bản 1927, của Hồ Chí Minh). Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi đã giành được chính quyền Người viết về vai trò của Đảng như sau: “cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một Đảng biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công” (Hồ Chí Minh toàn tập – t.12-t-303). Như vậy theo Người Đảng có vai trò vô cùng to lớn, mang trọng trách hết sức nặng nề và quang vinh:
“ Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng, niềm tin
Đảng ta Mác – Lê nin vĩ đại
Lại hồi sinh, trả lại cho ta
Trời cao đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.”
3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951), Người cho rằng: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Những quan điểm trên của Hồ Chí Minh dựa trên quan điểm của V.I Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Mục tiêu của Đảng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
4. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam:
4.1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi.
Cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi có Đảng cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm trên của các nhà kinh điển Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?” và Người đã khẳng định: “… trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng – nhân tố hàng đầu quyết định mọi thằng lợi của cách mạng Việt Nam.
4.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Ở đây phong trào công nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu không gắn bó với phong trào yêu nước, trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng không mở rộng được cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đưa cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi.
4.3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2.1951), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhắc lại luận điểm trên: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Quán triệt sâu sắc quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoạt động đã gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, tuyệt đại đa số những người dân Việt Nam, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên, dù thuộc giai tầng nào trong xã hội, ai ai đều cảm thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình, Đảng ta, Đảng của chúng ta, tự hào với những thắng lợi, thành công của cách mạng do Đảng lãnh đạo, có trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Đảng.
4.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”.
Quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, nhất là 20 năm đổi mới càng chứng tỏ vị trí, vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị, tinh thần của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Điều đó tiếp tục được Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[2]. Đó là sự khẳng định nhân tố hàng đầu đảm bảo tính tiền phong, tính cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
- Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ
- Hai là, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
- Ba là, tự phê bình và phê bình
- Bốn là, kỷ luật nghiêm minh và tự giác
- Năm là, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
4.6. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Vấn đề Đảng cầm quyền là một nội dung trọng yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam. Trong Di chúc, Người đã khẳng định: “Đảng ta là Đảng cầm quyền… Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên từ suy nghĩ đến hành động đều phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân: Việc gì có lợi cho nhân dân thì cố gắng làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân mà ở trong dân, trong lòng dân “Nước lấy dân làm gốc” “Đảng cũng phải lấy dân làm gốc”. Đảng lãnh đạo, dân là chủ.
4.7. Đảng Cộng sản Việt Nam phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Theo Hồ Chí Minh, chỉnh đốn, đổi mới Đảng đây không phải là một giải pháp tình thế, cũng không phải là một chủ trương thụ động mà Người coi là yếu tố cần và đủ giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng với xã hội, là điều kiện để Đảng không rơi vào tha hoá biến chất. Chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng và là một nhiệm vụ rất quan trọng liên quan trực tiếp tới sức mạnh, uy tín chính trị của Đảng và mỗi đảng viên. Vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu công tác chuẩn bị phải chu đáo, tỉ mỉ, thận trọng, phải xác định được nội dung, phương châm chỉ đạo, hình thức và bước đi cụ thể, tránh nôn nóng, chủ quan, Người nói: “Chỉnh Đảng phải làm từng bước, phải có trọng tâm”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản tác động vào nhận thức và hoạt động thực tiễn ở Việt Nam hiện nay:
– Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”[3].
– Từ tư tưởng Hồ Chí Minh, đảng đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhưng linh hoạt trong từng bối cảnh cụ thể của tình hình trong nước và quốc tế, đưa đến những thành tựu vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
– Vận dụng tư tưởng của Người trong tình hình hiện nay, Đảng ta đã xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
- Đảng đang chỉ đạo xây dựng dự thảo các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng sẽ tổ chức vào đầu năm 2021. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội được yêu cầu không chỉ xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm (2021-2025), mà còn phải xác định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030-100 năm thành lập Đảng và tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI (2045)-100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây là chỉ đạo có ý nghĩa rất quan trọng, là sự kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm, truyền thống quý báu của Đảng cộng sản Việt Nam. Xác định tầm nhìn của Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI, từ nay đến mốc thời gian đó là 30 năm, còn qua nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng, là cơ sở bảo đảm sự kiên định về định hướng phát triển đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo đảm sự nhất quán, kết nối, kế thừa và phát triển chủ trương, đường lối phát triển đất nước của Đảng qua các kỳ Đại hội và lĩnh hội từ tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản.
- Tầm nhìn của Đảng về phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, một mặt, đòi hỏi phải quán triệt các nội dung, quan điểm trong tầm nhìn đã được nêu trong các Cương lĩnh của Đảng và kế thừa các quan điểm về mục tiêu phát triển đất nước trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng vừa qua và tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản; mặt khác, phải thấy được tác động của bối cảnh thế giới hiện nay khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa kinh tế, mặc dù có những trở ngại do sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ ở một số nước. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, toàn cầu và khu vực (WTO, WB, IMF, AEC, APEC…). Trong bối cảnh đó, việc điều chỉnh, bổ sung một số quy định của luật pháp, cơ chế chính sách, tiêu chuẩn, định mức, tiêu chí đánh giá cho phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế là cần thiết và hợp lý.
III. Giải pháp góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh:
– Trước yêu cầu của tình hình mới, sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng vào xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay được đặt ra như một nhiệm vụ chính trị cấp bách, hệ trọng, phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của toàn thể nhân dân, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, thực sự tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ của dân tộc và thời đại:
+)Thứ nhất, nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng: Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, truyền thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại; giữ vững bản chất giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.
+) Thứ hai, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức: Theo đó, phải kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa cá nhân. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ.
+) Thứ ba, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở: Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán triệt, thực hiện nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, bố trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy.
+) Thứ tư, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu vững mạnh: Việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn gà hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng là chín”, “đừng chỉ thấy cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong”. Vì thế, cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những người cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, … vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ.
+) Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân: Việc đổi mới phải theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Với Nhà nước, Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm thay mà phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc dân chủ, thiết thực, nói và làm thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.
+) Thứ sáu, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát: Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng; tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước.
*Đặc biệt, nhất là trong bối cảnh hiện nay nước ta đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ các cấp và trước thềm Đại hội XIII của Đảng, thì việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, và thực hiện tốt đại hội XIII của Đảng là vô cùng quan trọng, và cần những giải pháp sau:
+) Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một cách thiết thực, hiệu quả. Trong đó, cấp ủy các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải chú trọng nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để kịp thời nhận diện và kiên quyết phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, ngăn chặn những diễn biến xấu về tư tưởng, chính trị.
+) Xây dựng các lực lượng chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội.
* Kết luận: Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là đường hướng, phương châm khoa học, cách mạng, để Đảng và Nhân dân ta xây dựng Đảng của mình trở thành Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trong xu thế mới của đất nước và thời đại đặt ra cho vai trò lãnh đạo của Đảng những nhiệm vụ mới. Đó là lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây vừa là điều kiện thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải vận dụng sáng tạo và giữ vững những nguyên tắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H2002, tr 274.
[2] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 83.
[3] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.99
Các bài luận liên quan:
- Phân tích hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu
- Trách nhiệm cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng theo Luật bảo vệ quyền lợi NTD (2010)
- Hợp đồng cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh
- Phân tích, đánh giá các quy định về căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp và nêu ví dụ minh hoạ
- Ký Hợp đồng thử việc thì nếu gây thiệt hại có phải bồi thường không
- Bình luận điểm mới của Bộ luật lao động năm 2019 về kỷ luật lao động
- Quy luật giá trị – lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
- Đặc điểm các thuộc tính nhân cách của bản thân và nêu phương hướng rèn luyện
- Phân tích các kỹ năng mà luật sư cần sử dụng trong tranh tụng phiên tòa
- Bình luận các quy định của pháp luật về giải thể doanh nghiệp và thực tiễn
- Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn bảo hộ công dân của Việt Nam, ví dụ thực tiễn
- Phân tích các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ về quyền sao chép tác phẩm và giới hạn quyền sao chép tác phẩm – Đánh giá thực trạng xâm phạm quyền sao chép tác phẩm và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế hành vi xâm phạm quyền sao chép trong thực tiễn
- Hiểu thế nào là trích dẫn hợp lý tác phẩm nhằm mục đích bình luận và nghiên cứu?
- Đặc trưng của ngôn từ người Việt, ngôn từ của giới trẻ hiện nay
- Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về công ty hợp danh – Ưu điểm, nhược điểm của công ty hợp danh so với các loại hình doanh nghiệp khác
- Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội
- Phân tích các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu theo quy định của BLDS năm 2015 – Sưu tầm 01 bản án của Tòa án về vấn đề này và nêu quan điểm cá nhân về nội dung được giải quyết
- Trách nhiệm củа Nhà nước đối với quyền cоn người, quyền công dân trоng bối cảnh đại dịch Cоvid-19 ở Việt Nаm
- Giải quyết tranh chấp về giao hàng theo Hợp đồng
- Bán phá giá – Vận dụng các quy định và thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
- Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự năm 2014
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.