Câu hỏi của khách hàng: Vợ không nắm rõ về các tài sản chung thì truy ra thế nào
Em cần tư vấn 1 số vấn đề mong các chuyên gia hiểu về luật hôn nhân giúp đỡ em.
1. Ba mẹ chồng em lấy nhau 30 năm rồi có 2 con 1. Trai sinh năm 1990 , 1 gái sinh năm 1995. Vài năm gần đây mẹ chồng em phát hiện cha chồng em ngoại tình, từng thuê thám tử và bắt quả tang . Cha chồng em và người bạn thân của mẹ em tại khách sạn cũng đã chụp hình nhưng vì đi 2 người và mấy ông xe ôm chở theo thôi. Vì lúc đó mẹ em mới đi mổ về nên sức khỏe yếu khi vào khách sạn thì bị cha chồng em xô ngã để cho người kia chạy đi , mẹ em chỉ kịp chụp vài tấm hình (1.Hình biển số và 2 xe của ba chồng em và người kia đậu trong cùng khách sạn đó, 2.Chụp hình 2 người cùng trong khách sạn chạy đi. 3.Hình người khác chụp mẹ em đứng chụp người phụ nữ kia chạy ra từ khách sạn) nhưng vì cha chồng và người đó xin tha nên mẹ em tha thứ và có yêu cầu người kia qua nhà chồng em xin lỗi , người kia có qua xin lỗi nhưng chỉ trong nhà biết mẹ em có ghi âm nhưng điện thoại bị cha chồng đập nên đã mất đoạn ghi âm chỉ còn hình. Trên face lưu lại. Đến thời điểm này sau hơn 1 năm 2 người đó vẫn qua lại với nhau nên mẹ em quyết định ly dị và trong lúc tức giận đã đăng lên face những tấm hình kia và công khai chuyện người kia giựt chồng. Thì người kia không nhận mà đổ ngược lại mẹ em vu khống đòi kiện ngược lại mẹ chồng em. Tình huống này mẹ chồng em phải làm như thế nào vì bà không rành và không biết chữ nên rất hoang mang .
Thứ 2. Khi mẹ chồng em đi mổ trên bệnh viện 1 tháng 15 ngày thì ở nhà cha chồng em tự ý bán 3 chiếc xe. 2 chiếc là xe hơi mua cũ lại chưa sang tên (vì gia đình chồng em mua đi bán lại xe hơi cũ) 1 chiếc xe kinh doanh tại khu du lịch trị giá 335 triệu do chồng em đứng tên và chạy từ năm 2012 đến nay. Và ra ép chồng em ký tên với lý do đưa tiền mẹ mổ, nhưng trên thực tế mẹ chồng em mổ chỉ tốn 40 triệu chi phí ba chồng em gửi tài khoản. Nhưng khi mẹ chồng em về thì cha chồng em nói tiền đó trả nợ và lo cho mẹ em mổ hết rồi (thực tế thì nhà em không nợ ai) vậy cho em hỏi trong chuyện này mẹ em phải làm như thế nào để không mất quyền lợi?
Thứ 3, Chồng em là con trai trong gia đình từ lúc 15, 16 tuổi đã phụ gia đình kinh doanh phòng Internet là nguồn thu chính của gia đình thời điểm đó, đến 2012 thì nhà mua xe kinh doanh trong khu du lịch dạng hợp tác xã, xe và chân chạy trong khu du lịch đó đều do chồng em đứng tên nhưng khi mẹ em đi mổ ba em đã tự ý bán và ra chửi ép chồng em ký tên. Vậy thì khi cha mẹ em ly dị thì chồng em sẽ như thế nào, công việc mất xe mất trong tay không có gì để làm ăn nuôi sống vợ con. Chồng em có đòi được quyền lợi gì cho mình không ? Xe là do ba mẹ em mua. Chồng em chỉ đứng tên và làm cho gia đình.
Thứ 4. Vì là ba em nắm toàn bộ tiền trong nhà nên tất cả tiền lương hai xe mỗi tháng từ 25 triệu tới 80 triệu ông đều lãnh và cất giữ trong thẻ hoặc có thể mua đất đứng tên 1 mình. Bây giờ ly dị thì khoản tiền này và số tài sản kia mẹ chồng em đều không biết gì về nó, vậy cho em hỏi có cách nào truy ra được tất cả tài sản và tiền trong ngân hàng mà ba chồng em đứng tên không? Khi không biết rõ cha chồng em dấu ở đâu.
Trên đây là các thắc mắc của em rất mong được các Anh , Chị , Cô , Chú chuyên gia hiểu về luật giúp đỡ mẹ chồng em. Em cảm ơn rất nhiều
Luật sư Tư vấn Luật hôn nhân và gia đình – Gọi 1900.0191
Dựa trên thông tin được cung cấp và căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết, thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.
1./ Thời điểm tư vấn: 30/11/2018
2./ Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Phạm vi quyền của người quản lý tài sản chung
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
- Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
- Bộ luật dân sự năm 2015
- Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình
3./ Luật sư trả lời Vợ không nắm rõ về các tài sản chung thì truy ra thế nào
Theo quy định của pháp luật, chế độ hôn nhân ở Việt Nam là chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Chế độ hôn nhân này được Nhà nước bảo vệ. Do đó, ba chồng của bạn sẽ phải chịu những trách nhiệm nhất định theo quy định của pháp luật do có hành vi ngoại tình (đây có thể là trách nhiệm hành chính hoặc hình sự). Ngoài ra, việc ba chồng của bạn tự ý bán tài sản trong nhà mà không có sự đồng ý của mẹ bạn, ép chủ sở hữu phải bán tài sản là một yếu tố để giao dịch mà bố chồng bạn đã xác lập bị vô hiệu.
Về hành vi đăng ảnh và có những lời nói, hành vi “công khai chuyện người kia giựt chồng” của mẹ chồng bạn. Đây là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của người phụ nữ kia. Tuy nhiên, hành vi này không phải là hành vi vu khống khi mẹ chồng bạn chứng minh được mình hoàn toàn có căn cứ, cơ sở để nói cho rằng người phụ nữ kia đã có hành vi như thông tin mà mẹ chồng của bạn đã đăng trước cơ quan chức năng có thẩm quyền. Bởi, tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự có cấu thành hành vi là:
-Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
-Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Nói cách khác, hành vi của mẹ chồng bạn chỉ bị xử lý hành chính do “Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác” (điểm a Khoản 1 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP) với mức phạt là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Ngoài ra, việc bố chồng bạn ngoại tình dẫn đến mẹ chồng bạn ly hôn với bố chồng bạn còn là căn cứ để mẹ chồng của bạn tố cáo hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng tới công an. Bố chồng của bạn có thể sẽ bị xử lý về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 182 Bộ luật hình sự:
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1.Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a)Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; …”
Về vấn đề tài sản trong gia đình bị bố bạn bán và sử dụng trái với ý chí của mọi người.
-Trước hết, về chiếc xe kinh doanh mà chồng bạn đứng tên mà bố bạn bán. Mặc dù chiếc xe là tài sản do bố mẹ chồng của bạn mua nhưng người đứng tên trên Giấy đăng ký xe lại là chồng của bạn, nên, về mặt pháp luật, tài sản này được xác định là tài sản thuộc sở hữu của chồng bạn. Bố chồng của bạn không có quyền bán chiếc xe. Việc bố chồng của bạn ép chồng bạn ký tên để bán xe là một căn cứ làm hợp đồng mua bán mà chồng bạn đã ký là vô hiệu. Cụ thể, theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự thì “khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu”.
Chồng của bạn cần làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng trên là vô hiệu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày “người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép” (theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 132 Bộ luật dân sự).
Tuy nhiên, việc có nhận lại được xe hay chỉ nhận được tiền đền bù cho chiếc xe đó tùy thuộc vào việc bên hiện đang sử dụng xe là bên đã mua xe từ bố bạn hay là người thứ ba, việc mua xe này là ngay tình hay không ngay tình (tức là người mua này có biết chiếc xe được chuyển giao trái với ý muốn của chủ sở hữu hay không). Bạn có thể tham khảo Điều 133 Bộ luật dân sự để nhận định kết quả xử lý nếu bên đang sử dụng xe là bên thứ ba ngay tình:
+Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
+Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
+Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
-Về những tài sản khác thuộc sở hữu chung của ba chồng và mẹ chồng bạn. Căn cứ Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1.Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2.Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3.Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Khoản 1 Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình quy định về trường hợp phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, chúng được xác định là tài sản riêng của vợ, chồng (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác).
Theo đó, hai chiếc xe của gia đình, sổ tiết kiệm, tài khoản ngân hàng,… của ba chồng bạn đều được xác định là tài sản chung của ba chồng bạn cùng mẹ chồng bạn. Do vậy, bố chồng bạn không có quyền tự ý bán những tài sản đó mà cần phải có sự đồng ý của mẹ bạn, nếu không, những hợp đồng đó cũng bị xác định là vô hiệu (trừ trường hợp ba chồng bạn có chứng cứ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của chính ba chồng bạn) nếu mẹ bạn có yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Việc xử lý tương tự như trong trường hợp bán xe của chồng bạn.
Khi hai người ly hôn thì toàn bộ số tài sản chung của hai người phải được chia theo thỏa thuận của hai bên hoặc theo quyết định của Tòa án.
-Về số tiền lương của chồng bạn được bố chồng quản lý. Nếu chồng của bạn chứng minh được bố chồng bạn có giữ tiền lương của chồng bạn thì chồng bạn có quyền yêu cầu bố chồng của bạn trả lại số tiền trên (việc xác định có thể dựa trên những tài liệu chứng cứ xác định việc chi trả tiền lương của chồng bạn hay những biên lai về việc chuyển tiền,…), trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác về việc xử lý số tiền trên. Trong trường hợp ba chồng bạn không thực hiện việc trả lại tiền theo quy định, chồng của bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp của bạn. Mẹ của bạn cần chứng minh việc đăng tải thông tin lên facebook hoàn toàn là có căn cứ, không phải bịa đặt để khi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vu khống. Chồng của bạn cũng như mẹ chồng bạn cần yêu cầu Tòa án tuyên bố những hợp đồng mua bán mà ba chồng bạn đã thực hiện để bán xe là vô hiệu để có căn cứ đòi lại quyền lợi cho mình. Cũng như việc xác định, chứng minh những tài sản của hai người mà bố bạn đang giữ để có cơ sở yêu cầu ba chồng bạn trả lại tài sản hoặc khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết.
Với những tư vấn trên, Công ty Luật LVN mong rằng đã có thể giải đáp được nhu cầu của quý khách, nếu quý khách vẫn còn chưa rõ hoặc có thông tin mới với trường hợp này, quý khách có thể liên hệ Bộ phận Tư vấn pháp luật Miễn phí số: 1900.0191 để được Luật sư hỗ trợ ngay lập tức.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.
Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN