Thủ tục đưa ra thi hành bản án và quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, các điều luật quy định: Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án (THA) hoặc ủy thác cho Chánh án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Việc ra quyết định thi hành án đối với các bị án được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được quy định tại khoản 2 điều 261 và điểm b, khoản 1 Điều 262 Bộ luật Hình sự năm 2003.
Khoản 2 Điều 261 và điểm b, khoản 1 Điều 262 Luật thi hành án hình sự năm 2003 đều quy định: Chậm nhất là 07 ngày kể từ ngày hết hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, Chánh án Tòa án đã cho hoãn, tạm đình chỉ phải ra quyết định thi hành án…. Theo nội dung điều luật thì bị án trước đó đã có quyết định thi hành án, sau đó được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án. Khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ thi hành án thì Tòa án có thẩm quyền lại tiếp tục ra quyết định thi hành án khác đối với bị án như điều luật nêu trên.
Việc ra quyết định thi hành án phạt tù Bộ luật Hình sự năm 2015 không điều chỉnh vì đã có điều luật thi hành án hình sự quy định (Điều 21 Luật thi hành án hình sự). Xuyên suốt Luật thi hành án hình sự không có điều luật nào quy định sau khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù Tòa án ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ phải tiếp tục ra quyết định thi hành án đối với bị án mà chỉ ra thông báo, cụ thể:
Tại khoản 6 Điều 24 Luật thi hành án hình sự quy định: “Chậm nhất là 07 ngày trước khi hết thời hạn hoãn thi hành án phạt tù Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù phải ra thông báo bằng văn bản và gửi ngay thông báo đó cho người chấp hành án…”.
Tại điểm a, khoản 4 Điều 32 Luật thi hành án hình sự quy định: “Chậm nhất là 07 ngày trước khi hết thời hạn tạm đình chỉ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được tạm đình chỉ về cư trú… có trách nhiệm thông báo cho người được tạm đình chỉ biết và yêu cầu người đó có mặt tại nơi chấp hành án đúng thời gian quy định…”.
Như vậy, theo các nội dung nêu trên thì Luật thi hành án hình sự quy định: Khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ thi hành án Tòa án ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ không phải tiếp tục ra quyết định thi hành án như quy định tại khoản Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự mà chỉ ra thông báo như đã nêu tại khoản 6 Điều 24 và điểm a, khoản 4 Điều 32 Luật thi hành án hình sự. Vì theo khoản 3 Điều 181 Luật thi hành án hình sự thì kể từ ngày luật này có hiệu lực, các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự về thi hành án tử hình, thi hành án phạt tù… có nội dung khác với luật này thì áp dụng theo quy định của Luật này.
Tại thông báo rút kinh nghiệm về việc kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu trong công tác kiểm sát thi hành án phạt tù số 173/TB-VKSTC-V4 ngày 16/7/2012 và trong chương trình tập huấn về công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam thi hành án hình sự năm 2014 do VKSNDTC tổ chức cũng đã hướng dẫn thực hiện theo khoản 6 Điều 24 và điểm a khoản 4 Điều 32 Luật thi hành án hình sự (Không tiếp tục ra quyết định thi hành án khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ thi hành án).
Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành công văn số 07/CV-TA ngày 27/2/2012 hướng dẫn Tòa án cấp huyện vẫn tiếp tục ra quyết định thi hành án như quy định tại khoản 2 Điều 261 và điểm b khoản 1 Điều 262 BLTTHS; các Viện kiểm sát cấp huyện cũng đã kháng nghị, kiến nghị Tòa án cấp huyện về việc tiếp tục ra quyết định thi hành án khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ nhưng Tòa án không chấp nhận với lý do Tòa án tỉnh chỉ đạo thực hiện theo Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong thực tế hiện nay về nhận thức cũng đang có nhiều quan điểm cho rằng tiếp tục ra quyết định thi hành án là không có ảnh hưởng gì đồng thời có nhiều thuận lợi hơn trong việc thi hành án nên đang có nhiều tranh chấp về việc tiếp tục ra quyết định thi hành án hay chỉ thông báo khi hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ như quy định tại khoản 6, điều 24 và điểm a, khoản 4, điều 32 Bộ Luật tố tụng hình sự.
Để giải quyết vướng mắc trong thực tiễn và thống nhất chúng tôi đề nghị VKSND tối cao cần trao đổi với Tòa án nhân dân tối cao để có hướng dẫn thực hiện thống nhất về nội dung nêu trên./.
Chu Thắng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.