Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước với trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai

Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước với trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai


Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước với trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai
Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước với trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai

MỞ ĐẦU

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa là tiến trình tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam chúng ta. Trong tiến trình này không thể không nói đến công tác giải phóng mặt bằng cụ thể là di dân, giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Tuy nhiên vấn đề bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp mang tính chất kinh tế, xã hội tổng hợp, được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, tổ chức và cá nhân. Đất đai là tài sản quý giá nhất của đất nước nói chung, cũng như từng người dân nói riêng, nó là cội nguồn để sản sinh ra các loại tài sản khác và là tiền đề vật chất để nhân dân có cuộc sống bình thường ổn định. Vì lẽ đó việc thu hồi đất của Nhà nước dựa trên lợi ích chung phải được thực hiện hết sức thận trọng, tránh gây ra những sự mất ổn định không đáng có trong xã hội. Bồi thường thiệt hại về đất không chỉ thể hiện bản chất kinh tế các mối quan hệ về đất đai mà còn thể hiện các mối quan hệ về chính sách, xã hội của Nhà nước bấy giờ. Để đảm bảo vấn đề trên được thực hiện minh bạch, rõ ràng, rất nhiều các văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn đã được ban hành và ngày càng cụ thể, chi tiết hơn.

Sau đây, em xin phép được đi sâu tìm hiểu về vấn đề Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước với trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai và Phân tích ý nghĩa của việc ra đời Luật bồi thường nhà nước đối với công tác thi hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở nước ta hiện nay.

NỘI DUNG

I.Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường Nhà nước

Một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền là công dân và Nhà nước phải được đối xử bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự. Trong quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với công dân, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức bị xâm phạm thì đối tượng có hành vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình, đó chính là nguyên tắc đạo lí của nhà nước trước xã hội công dân. Xã hội càng hiện đại, văn minh càng đòi hỏi tính trách nhiệm cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn đối với các chủ thể, trong đó có nhà nước.

Như vậy, về khái niệm ta có thể định nghĩa một cách tổng quát: trách nhiệm bồi thường Nhà nước là trách nhiệm pháp lý trong đó nhà nước có nghĩa vụ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do Nhà nước gây ra.

 

II.Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước với trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai

Trước tiên, để có thể thực hiện yêu cầu phân biệt trên, ta cần chỉ rõ các quy định của pháp luật hiện hành về hai loại trách nhiệm này.

Thứ nhất là trách nhiệm bồi thường trong Luật bồi thường nhà nước:

“Điều 6. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường

1.Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có các căn cứ sau đây:

a) Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại các điều 13, 28, 38 và 39 của Luật này;

b) Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.

2.Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có các căn cứ sau đây:

a) Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này;

b) Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.”

Tại khoản 3 Điều 6 này cũng có quy định Nhà nước sẽ không bồi thường trong các trường hợp:

“3. Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra trong các trường hợp sau đây:

a) Do lỗi của người bị thiệt hại;

b) Người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc;

c) Do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.”

Thứ hai, là trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai:

“Điều 42. Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi

1.Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của Luật này.”

Từ những quy định trên, ta có thể thấy nhìn chung về mặt ngôn từ thì hai loại trách nhiệm này không có gì khác nhau đều là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Nhưng nếu đi sâu hơn về nội hàm thì bản chất của hai loại trách nhiệm này lại hoàn toàn khác nhau.

Cụ thể, trách nhiệm bồi thường Nhà nước là trách nhiệm bồi thường phát sinh do các vi phạm từ phía Nhà nước gây thiệt hại thực tế cho cá nhân, tổ chức.

Tại khoản 8 Điều 13 Luật bồi thường nhà nước, có quy định:

“Điều 13. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp

8.Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;…”

Quan hệ bồi thường nhà nước trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng như trên có thể được hiểu là phát sinh từ những hành vi vi phạm của cơ quan, công chức, viên chức nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dẫn đến thiệt hại cho tổ chức, cá nhân. Vậy trách nhiệm bồi thường Nhà nước sẽ phát sinh khi có Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại, đó là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của pháp luật và được xác định trong văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay, Khoản 2, Điều 54 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP đã quy định: “Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng thực hiện quyết định thu hồi đất; cơ quan nhà nước đã ban hành quyết định thu hồi đất phải có quyết định huỷ bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra (nếu có)”.

Mặt khác, trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất, giải phóng mặt bằng theo quy định của pháp Luật đất đai khi Nhà nước thu hồi đất lại có bản chất hoàn toàn khác, không phải dựa trên hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.

Để phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, Nhà nước phải thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, từ đó phát sinh trách nhiệm bồi thường giữa Nhà nước và người sử dụng đất bị thu hồi. Việc bồi thường ở đây cũng được tiến hành tuân theo các nguyên tắc, căn cứ và trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai.

Như vậy, bản chất hai loại trách nhiệm này là hoàn toàn khác nhau, trách nhiệm bồi thường Nhà nước được phát sinh khi có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và gây ra thiệt hại; còn trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất đai phát sinh khi vì lợi ích chung của xã hội Nhà nước tiến hành giải phóng mặt bằng có bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.

 

III. Ý nghĩa của việc ra đời Luật bồi thường nhà nước đối với công tác thi hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở nước ta hiện nay

Trước đây, do còn thiếu cơ sở pháp lý quy định nên mỗi khi phát sinh thiệt hại cho công dân từ những hành xử, việc làm trái pháp luật của một số cán bộ, công chức vô tình hay cố ý gây ra là rất khó xử lí, tạo bức xúc lớn trong xã hội về các cơ quan Nhà nước. Để xử lí hạn chế này Chính phủ và Ủy ban thường vụ Quốc hội đã kịp thời ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2010.

Việc ra đời Luật bồi thường nhà nước đã khẳng định quyền của người dân được Nhà nước bồi thường khi bị người thi hành công vụ gây thiệt hại trong các lĩnh vực hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, hình sự, thi hành án nói chung và hoạt động bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nói riêng.

Đối với công tác thi hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi giải phóng mặt bằng được coi là khá nhạy cảm này thì Luật bồi thường nhà nước lại càng trở nên quan trọng hơn. Do đặc thù của hoạt động giải phóng mặt bằng là đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong đó Nhà nước đại diện chủ sở hữu, Nhà nước có thể tiến hành thu hồi đất từ người sử dụng đất bất cứ lúc nào nhằm phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Từ đặc thù trên rất dễ dẫn tới tình trạng lạm quyền, coi thường nhân dân của cán bộ, công chức thuộc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, do vậy Luật bồi thường nhà nước không chỉ góp phần phòng ngừa hạn chế vi phạm pháp luật từ phía các cán bộ, công chức, nhằm làm cho cán bộ công chức nhận thức rõ được trách nhiệm công vụ của mình mà còn thể hiện rõ quan điểm của Đảng nếu Nhà nước sai Nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm.

Thứ hai, trong quá trình thi hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nếu cơ quan Nhà nước xảy ra sai phạm, thì Luật bồi thường nhà nước cũng có những hướng dẫn rất cụ thể để giúp cho người dân có thể nắm rõ các loại thiệt hại, điều kiện bồi thường, nghĩa vụ chứng minh, trình tự, thủ tục bồi thường…từ đó đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, luật đã thiết lập được cầu nối với Luật Khiếu nại và tố cáo đã ban hành trước đó tạo thành một hệ thống pháp lý vững chắc giúp bảo vệ quyền lợi của người dân trong hoạt động giải phóng mặt bằng. Và đương nhiên, khi quyền lợi người dân đã được bảo đảm thì công tác thi hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ diễn ra nhanh chóng hơn, hạn chế được tình trạng chậm tiến độ giải phóng mặt bằng hay những khiếu kiện về đất đai kéo dài.

 

IV.Vấn đề hoàn thiện Luật bồi thường nhà nước trong thực tiễn áp dụng để trở thành công cụ hữu hiệu hỗ trợ việc thi hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Mặc dù, luật đã ban hành, nhưng qua đánh giá bước đầu việc triển khai thi hành luật, có thể thấy rằng ý nghĩa, vai trò cũng như nội dung cơ bản của luật vẫn chưa được đông đảo cán bộ, công chức, nhân dân nhận thức đầy đủ. Vấn đề bình đẳng giữa nhà nước và công dân trong việc bồi thường thiệt hại vẫn chưa được thực thi hiệu quả do tồn tại nhiều lý do khác nhau.

Có thể nói, những hạn chế này là do nhận thức của nhiều đồng chí lãnh đạo ngành, địa phương về ý nghĩa, vai trò của luật còn chưa cao, do đó chưa có sự chỉ đạo sát sao, kịp thời trong việc thực hiện công tác quán triệt luật cũng như bố trí nhân sự theo dõi, thực thi luật.

Ngoài ra, để thực thi được luật đòi hỏi phải có bước chuẩn bị và những đầu tư đồng bộ về con người, bộ máy cũng như khả năng tài chính là hết sức quan trọng. Nhưng do chưa có hướng dẫn kịp thời từ các cơ quan Trung ương nên địa phương vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc bố trí cán bộ.

Mặt khác, cũng còn có những hạn chế từ các quy định của luật cần phải nhanh chóng hoàn thiện, cụ thể như:

Thứ nhất, cơ chế bồi thường thiệt hại hiện hành, về cơ bản, không có lợi cho người bị thiệt hại. Pháp luật hiện hành quy định khi một cán bộ, công chức gây thiệt hại trong quá trình thực hiện công vụ thì trách nhiệm bồi thường thuộc về cơ quan, tổ chức quản lý công chức đó. Quy định này dẫn đến hệ quả là sự đùn đẩy trách nhiệm giải quyết bồi thường giữa các cơ quan có liên quan trong việc gây ra thiệt hại (trong nhiều trường hợp, việc gây ra thiệt hại có thể do lỗi của các cán bộ, công chức của nhiều cơ quan khác nhau và do đó, khó xác định trách nhiệm thuộc về cơ quan nào); ngoài ra cũng gây ra sự thiếu khách quan trong việc giải quyết bồi thường vì trong nhiều trường hợp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị thực hiện bồi thường lại chính là người đã gây ra thiệt hại.

Thứ hai, thủ tục bồi thường còn rườm rà, thủ tục chi trả tiền bồi thường còn phức tạp, chưa tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại.

 

KẾT LUẬN

Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tổ chức và hoạt động của nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Hơn nữa, trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là “bình đẳng”; nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Như vậy, không có lý do gì mà hành vi vi phạm pháp luật của công dân thì bị xét xử mà hành vi xâm phạm, lạm quyền từ phía nhà nước lại được miễn trừ.

Việc thực hiện nghiêm túc vấn đề bồi thường thiệt hại là bước cải cách lớn trong hoạt động cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

Để thi hành hiệu quả Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trên mọi hoạt động trong đó có bồi thường giải phóng mặt bằng, đòi hỏi bên cạnh việc tổ chức tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến các nội dung của luật thì chính quyền các cấp, các cơ quan, ban ngành ở địa phương cần tập trung thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các quy định có liên quan đến hoạt động công chức, công vụ; nâng cao tinh thần trách nhiệm thực thi công vụ, tận tụy phục vụ nhân dân.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 số 35/2009/QH12 thông qua ngày 18/6/2009
  • Nghị định số 47/CP của Chính phủ ngày 03/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
  • Luật Đất đai 2003

 


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191