Đàm phán là biện pháp tối ưu trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông
Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng quyết đoán và ngang ngược trong việc đòi chủ quyền và làm thay đổi hiện trạng các đảo ở Biển Đông, thì vấn đề tranh chấp càng trở nên phức tạp, có nguy cơ thổi bùng xung đột địa chính trị. Hành động của Trung Quốc được thể hiện qua việc Quốc Vụ Viện Trung Quốc ra Nghị quyết thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào tháng 11 năm 2007; tuyên bố yêu sách đường lưỡi bò vào tháng 5 năm 2009 chiếm hơn 80 % diện tích Biển Đông. Cùng với đó là việc gia tăng tần suất sử dụng các biện pháp để hỗ trợ cho mục tiêu xác lập chủ quyền của Trung Quốc, như: Gây sức ép đến một số công ty đa quốc gia đang hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí với Việt Nam và Phi-líp-pin, tiến hành nhiều cuộc tập trận với quy mô lớn trên Biển Đông, thực hiện lệnh cấm bắt cá hàng năm và quấy nhiễu ngư dân các nước hoạt động hợp pháp trên vùng biển của mình, hạ đặt giàn khoan trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế và gần đây là những hành động “ráo riết” cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa,… Vì vậy, việc nghiên cứu, xác định một phương thức giúp các quốc gia tìm kiếm giải pháp khả quan trong giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đang là vấn đề hết sức cấp thiết ở thời điểm hiện nay.
Tính tới thời điểm hiện tại, có nhiều tranh chấp quốc tế trên biển, tuy nhiên, các tranh chấp phức tạp, kéo dài thường rơi vào những loại tranh chấp như: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới biển và thềm lục địa chồng lấn… Luật quốc tế chưa quy định cụ thể một giải pháp nhất định nào cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế mà chỉ nêu lên một số phương thức thông dụng dành cho các quốc gia quyền tự do lựa chọn những phương pháp hòa bình khác hợp lý, có lợi và chấp nhận được. Một số phương thức nhằm giải quyết tranh chấp mà chúng ta có thể phân loại thành các nhóm sau: Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức phi tài phán. Ở phương thức này, các biện pháp thường được đề cập đến đó là: Đàm phán, thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng,… Thứ hai, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức tài phán như trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các tranh chấp trên biển, nên dưới góc độ bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thông qua biện pháp đàm phán như một giải pháp tối ưu hiện nay cho các quốc gia tranh chấp ở biển Đông.
Hiện tại, chưa có một khái niệm nhất quán nào về đàm phán và pháp luật quốc tế cũng chưa có quy định cụ thể về quy trình, thủ tục pháp lý khi tiến hành quá trình đàm phán để giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế hiện nay, thì đàm phán là một thuật ngữ thường được nhắc tới và sử dụng phổ biến trong đời sống quốc tế, nhất là trong quá trình đàm phán ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới bởi tính chất linh hoạt của biện pháp này. Các quốc gia có thể tiến hành đàm phán để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào phát sinh với một hay nhiều quốc gia khác mà không phụ thuộc vào bản chất hay nội dung của tranh chấp là gì (có thể là kinh tế, chính trị, lãnh thổ hay biên giới). Hơn thế nữa, các quốc gia không bị ràng buộc bởi các quy trình, thủ tục nghiêm ngặt như đối với các biện pháp tài phán mà hoàn toàn có thể tiến hành theo mong muốn, ý chí của các bên có liên quan. Trong quá trình tiếp xúc trực tiếp, các bên hữu quan có khả năng tìm hiểu lập trường của nhau rõ ràng hơn và bằng thiện chí, có thể đi đến những giải pháp thỏa đáng cho tất cả các bên. Trong nhiều trường hợp, đàm phán không nhất thiết phải đi đến một giải pháp cuối cùng, mà đơn thuần đóng vai trò như một diễn đàn chung để các bên liên quan trao đổi ý kiến, xác định các vấn đề chưa đạt được nhất trí chung cũng như thảo luận, đàm phán những vấn đề cốt lõi và thủ tục cho việc áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác về sau. Chính sự linh hoạt và tự do khá lớn mà các quốc gia có được trong quá trình áp dụng, biện pháp đàm phán được áp dụng phổ biến hơn các biện pháp khác và thường mang lại hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Có thể thấy được điều này thông qua thống kê các hiệp định (hay điều ước) phân định trên biển tính đến ngày 25/11/2014 dưới đây [1]:
– Khu vực Châu Phi: 29 hiệp định đã ký kết (chiếm 11,7%);
– Khu vực Châu Á: 53 hiệp định đã ký kết (chiếm 21,4%);
– Khu vực Châu Âu: 93 hiệp định đã ký kết (37,6%);
– Khu vực Châu Mỹ: 50 hiệp định đã ký kết (20,2);
– Khu vực Châu Đại Dương: 22 hiệp định đã ký kết (8,9).
Như vậy, rất nhiều tranh chấp về phân định trên biển đã được giải quyết thông qua con đường đàm phán và kết quả được thể hiện qua các hiệp định. Với việc nhận thức đúng về biện pháp đàm phán – một biện pháp phổ biến, hiệu quả và linh hoạt nhất, nên hầu hết các khu vực, đặc biệt khu vực Châu Âu đã sử dụng phổ biến biện pháp này.
Tại sao ở thời điểm hiện tại, đàm phán lại là một giải pháp tối ưu cho Việt Nam, một quốc gia đang sử sụng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như: Trung Quốc, Phi-líp-pin, Mai-lai-xia, Bru-nây, Đài Loan? Có lẽ là bởi những lý do sau:
– Xuất phát từ thẩm quyền của Tòa án quốc tế, Việt Nam khó có thể khởi kiện các bên tranh chấp (đặc biệt là Trung Quốc) ra Tòa án quốc tế, (bao gồm: Tòa án quốc tế (ICJ), Tòa án Quốc tế về Luật biển (thành lập theo Phụ lục VI Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982) và Tòa án đặc biệt (phụ lục VIII Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982),… để yêu cầu giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông. Theo truyền thống, hầu hết những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia trên thế giới đều được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Tuy nhiên, theo quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc và quy chế Tòa án quốc tế của Liên Hợp quốc, ICJ chỉ giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia khi có yêu cầu và các quốc gia đó đều đã chấp nhận thẩm quyền giải quyết của ICJ [2]. Trên thực tế, Việt Nam và các bên tranh chấp chưa ký kết điều ước quốc tế nào có quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại ICJ. Hơn nữa, kể cả việc khi đã đưa ra Tòa án quốc tế thì việc phải tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda (tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế) thì khả năng rủi ro rất cao, có thể nếu thắng sẽ được tất cả nhưng cũng có thể bị thua và mất tất cả. Trong trường hợp này, có lẽ chúng ta chưa không nên mạo hiểm đặt cược chủ quyền của quốc gia vào sự phán xét của Tòa án và chắc chắn thời gian theo đuổi vụ kiện sẽ không phải là ngắn.
– Các biện pháp phi tài phán khác ngoài đàm phán như thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng cũng là những biện pháp quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp, song chúng chỉ là một trong các biện pháp bổ trợ cho biện pháp đàm phán mà thôi. Thực tế thống kê về các vụ tranh chấp biển, thì chưa có vụ tranh chấp nào chỉ sử dụng đơn thuần một trong các biện pháp trên.
– Trong khi đó, việc sử dụng biện pháp đàm phán (có thể là song phương hoặc đa phương) trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông sẽ làm sáng tỏ những bất đồng, là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết. Hơn thế nữa, trong quá trình đàm phán sẽ giúp Việt Nam hoàn toàn kiểm soát được nội dung, thủ tục và tiến trình giải quyết tranh chấp mà không bị cuốn vào quá trình tố tụng kéo dài. Và trong khi vấn đề chủ quyền giữa các quốc gia trên biển chưa được giải quyết triệt để thì sử dụng biện pháp đàm phán để giải quyết là một trong những hướng đi đúng đắn giúp Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế, từ đó có thể xây dựng các đối sách phù hợp đồng thời có thời gian củng cố thêm cơ sở pháp lý để bảo vệ quan điểm chính đáng của mình và phản bác những lập luận, yêu sách sai trái của đối phương.
Chủ trương của Việt Nam là bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích của quốc gia trên Biển Đông; giữ gìn môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Thực tế, Việt Nam đã và đang thực hiện rất tích cực biện pháp đàm phán và cần tiếp tục kiên trì thực hiện trong tương lai
Để biện pháp đàm phán mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình giải quyết tranh chấp, chúng ta cần chú ý các vấn đề sau:
Một là, cần tôn trọng các nguyên tắc, tuân thủ quy định của pháp luật quốc tế một các đúng đắn, phù hợp dù muốn hay không, luật pháp hiện hành đóng vai trò chi phối trong việc giải quyết vấn đề phân định ranh giới biển là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây là một bài học quan trọng đã được Đại sứ ArifHavas Oegroseno, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Ngoại giao In-đô-nê-xi-a và hiện là Đại sứ của In-đô-nê-xi-a tại Bỉ rút ra từ kinh nghiệm giải quyết thông qua quá trình đàm phán để phân định biển giữa In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin để đi đến một kết quả cuối cùng là Hiệp định phân định biển giữa hai quốc gia được ký kết vào ngày 23/5/2010 [3].
Hailà, việc đàm phán cần được tiến hành hết sức linh hoạt dựa trên điều kiện thực tế của việc giải quyết tranh chấp, không nên giữ quan điểm cứng nhắc. Trong các cuộc đàm phán để tiến tới giải pháp phân định cuối cùng, nếu cần thiết và dựa trên sự đồng ý của các bên, Việt Nam có thể cùng các nước lựa chọn tiến hành các biện pháp tạm thời theo tinh thần của Điều 74, Điều 83 Công ước Quốc tế về Luật Biển (về hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau và hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau).
Ba là, vận dụng và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ việc phân định biển của các nước khác, cần phải nhận rõ những thách thức, nắm bắt đúng thời cơ để vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại.
Bốn là, khẩn trương nhưng không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.
Năm là, thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao cũng như các cấp của hai nước, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung.
Sáu là, tích cực tham gia vào các vòng đàm phán song phương cũng như đa phương để tìm kiếm các giải pháp hòa bình giúp giải quyết tranh chấp Biển Đông .
Bảy là, do hoàn cảnh hiện nay các nước khu vực Biển Đông đều có lợi ích từ vùng biển này nên trong đàm phán cần biết cân đối lợi ích giữa các bên để có thể đem đến một sự công bằng tương đối cũng như bảo vệ được lợi ích hợp pháp của quốc gia mình.
Tám là, trong đàm phán cần có lập trường vững vàng cũng như thái độ rõ ràng, dứt khoát để kiên quyết phản đối những hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia.
Chín là, cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.
Cuối cùng, cần đặc biệt lưu ý chuẩn bị hồ sơ đàm phán, nhất là hồ sơ pháp lý một cách đầy đủ, chặt chẽ, khách quan, khoa học… nhằm có đủ luận cứ, luận chứng để bảo vệ các quan điểm chính đáng của mình và phản bác những lập luận, yêu sách sai trái của đối phương.
Nguyễn Thị Hải Yến
Nhà xuất bản Tư pháp
Tài liệu tham khảo:
[1]http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_maritime_boundary_treaties.
[2] Trong một phán quyết của mình, Tòa đã nêu rõ: “Tòa không thể thực hiện thẩm quyền tài phán của mình đối với một quốc gia nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó” – Nguyễn Hồng Thao,Tòa án Công lý Quốc tế, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 60.
[3] Xem thêm: Hiệp định phân định biển In-đô-nê-xi-a – Phi-líp-pin: Những bài học cho các bên tranh chấp Biển Đông – Trang Nghiên cứu Biển Đông truy cập http://nghiencuuquocte.net/2014/06/20/hiep-dinh-phan-dinh-bien-indonesia-philippines/, truy cập ngày 20/6/2015.
Tham khảo thêm:
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
- Bảo đảm quyền bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm
- Các hình thức thực thi dân chủ trực tiếp trên thế giới và ở Việt Nam
- Hoàn thiện các biện pháp cưỡng chế trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự
- Sự hình thành tư tưởng hợp đồng hành chính và vai trò của hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước
- Thực trạng quy định và áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực tài chính – Những vấn đề cần được sửa đổi
- Góp ý điều khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi thường thiệt hại trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)
- Cần bổ sung khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về chủ thể vào dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)
- Cơ sở pháp lý thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
- Quyền có việc làm của người lao động – Tiếp cận dưới góc độ quyền con người
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.