Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước

Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước

16/06/2015

Trong bối cảnh hiện nay, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình không chỉ là một yêu cầu cấp thiết để thực hành dân chủ, bảo đảm quyền của dân trong tham gia quản lý đất nước và xã hội, quan trọng hơn nữa, chính là một giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống tham nhũng. Minh bạch và trách nhiệm giải trình cũng là công cụ xây dựng tổ chức vững mạnh, phát triển bền vững, đang là xu thế và đòi hỏi cấp bách đối với các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước cũng là một trong những mục tiêu quan trọng mà Luật Tiếp cận thông tin hướng tới.

1. Yêu cầu về tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước

Trách nhiệm giải trình là cốt lõi của quan hệ công việc giữa các cá nhân với nhau, cũng như giữa một tổ chức với cơ quan quản lý và công chúng, và đặc biệt quan trọng trong những lĩnh vực có quan hệ tới lợi ích của số đông công chúng, chẳng hạn chính sách công hay những hoạt động sử dụng ngân sách công. Thuật ngữ trách nhiệm giải trình là sự thừa nhận về trách nhiệm đối với mọi hành động, mọi sản phẩm, mọi quyết định hay chính sách trong việc lãnh đạo, quản lý, và thực hiện công việc; gắn với nghĩa vụ báo cáo, giải thích, biện minh cho mọi hậu quả của những việc đã hoặc sẽ làm. Khả nănggiải trình trách nhiệm được hiểu như năng lực thực hiện nghĩa vụ thông tin đầy đủ, năng lực biện minh cho hành động của mình trong quá khứ hoặc tương lai, và chịu đựng sự trừng phạtnếu như hành động ấy vi phạm các quy tắc đạo đức và pháp lý [[1]].

Cũng có quan điểm cho rằng trách nhiệm giải trình” là phương tiện để hướng tới sự minh bạch; nếu như công khai vừa là nhiệm vụ, vừa là hoạt động cụ thể, trong đó các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông tin để người dân biết được các nội dung phải công khai thì minh bạch được xem như quá trình hoạt động công khai bao hàm trạng thái mà người dân biết rõ, hiểu đúng bản chất nội dung đã được công khai. Tính giải trình còn được đề cập đến với tư cách là một yêu cầu quan trọng đối với việc thực hiện minh bạch. Theo đó, yêu cầu về giải trình “nhằm bảo đảm việc cung cấp đủ bằng chứng, căn cứ mang tính khách quan để giải thích hay làm rõ về các nội dung hoặc vấn đề cần minh bạch” [[2]] Nếu hiểu theo khái niệm nêu trên, sẽ có rất nhiều chủ thể phải chịu trách nhiệm giải trình. Đại đa số các quốc gia yêu cầu các cơ quan hành chính phải cung cấp thông tin cho bất kỳ cá nhân công dân nào khi có yêu cầu. Như vậy, có thể hiểu mối quan hệ giải trình trong phạm vi Luật này là giữa Nhà nước – các cơ quan nhà nước với công dân; chủ thể chịu trách nhiệm giải trình ở đây là cơ quan nhà nước và không chỉ giới hạn ở cơ quan hành chính mà cả các cơ quan nhà nước khác. Như vậy, trách nhiệm công khai, minh bạch trong hoạt động được áp dụng đối với ba loại cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp.Tuy nhiên, bài viết này tập trung đề cập đến trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước.

Việc bảo đảm trách nhiệm giải trình gắn liền với các khái niệm, cơ chế, quy định pháp luật về công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động của cơ quan công quyền. Trong thời gian vừa qua, việc đảm bảo tính minh bạch của cơ quan hành chính được đề cập như là một trong những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động của Nhà nước và là yêu cầu của việc thực hiện các cam kết quốc tế.

Việc cần phải công khai, minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương xuống địa phương xuất phát từ các lý do sau: Đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, người dân có quyền được biết về các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các chính sách và pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành cần phải xuất phát từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn nên cần có sự tham gia của người dân, người dân cần được tham gia sớm; việc công khai, minh bạch hoạt động là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa và phòng chống hiệu quả những tệ nạn của bộ máy quản lý nhà nước như hối lộ, tham nhũng…

2. Thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan hành chính

Theo Luật Công nghệ thông tin năm 2006, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin có quyền tìm kiếm, trao đổi, sử dụng thông tin trên môi trường mạng (trừ một số thông tin có nội dung được Luật quy định). Cũng theo quy định của Luật này, Trang tin điện tử của cơ quan nhà nước phải bảo đảm cho tổ chức, cá nhân truy cập thuận tiện và phải có các thông tin chủ yếu như tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó và của từng đơn vị trực thuộc, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và văn bản pháp luật có liên quan; quy trình, thủ tục hành chính được thực hiện bởi các đơn vị trực thuộc, tên của người chịu trách nhiệm trong từng khâu thực hiện quy trình, thủ tục hành chính, thời hạn giải quyết các thủ tục hành chính; thông tin tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách, chiến lược, quy hoạch chuyên ngành; thông tin về dự án, hạng mục đầu tư, đấu thầu, mua sắm công; mục lấy ý kiến góp ý của tổ chức, cá nhân. Có thể nhận định rằng, đây là một quy định quan trọng và thúc đẩy quá trình “Chính phủ mở”, cũng như nhằm hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử trong tương lai và góp phần làm tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước.

Ngày 23/11/2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, Kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng. Luật này đã bổ sung Điều 32a quy định: “Khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó” và bổ sung Điều 46b quy định về nghĩa vụ giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình; quy định mức giá trị tài sản tăng thêm và việc xác định giá trị tài sản tăng thêm, thẩm quyền yêu cầu giải trình, trách nhiệm của người giải trình, trình tự, thủ tục của việc giải trình.

Luật Phòng chống tham nhũng của Việt Nam quy định 07 hình thức công khai hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhưng có thể phân thành hai nhóm. Nhóm các hình thức chủ động công khai bao gồm 06 hình thức: Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; niêm yết tại trụ sở làm việc; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử. Hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 12 chính là hình thức công khai bị động.

Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 8/8/2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Theo đó, Nghị định này áp dụng cho các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình; Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế; các tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; công dân Việt Nam, người nước ngoài sinh sống hoặc làm việc tại Việt Nam có yêu cầu giải trình.

i) Về việc thực hiện trách nhiệm bảo đảm minh bạch chính sách, pháp luật và các thủ tục hành chính và quy trình hoạch định chính sách, ban hành quyết định của các cơ quan hành chính

Đối với Chính phủ, việc công khai các chủ trương, chính sách về quản lý đất nước, quản lý xã hội là một trong những nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ, Quy chế làm việc của Chính phủ và các quy định về lề lối, phương thức làm việc của từng bộ, ngành của Chính phủ. Bên cạnh đó, đề án xây dựng Chính phủ điện tử đang được dần dần hoàn thiện; các quy trình, thủ tục hành chính được từng bước tin học hóa nhằm nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân và doanh nghiệp được thuận tiện, nhanh gọn; việc cung cấp thông tin về địa phương, thực hiện đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép đầu tư, giấy phép xây dựng, tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đã được công khai ở nhiều địa phương. Ngoài ra, Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Chính phủ quản lý ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng, trở thành công cụ hữu hiệu thể hiện tính công khai, minh bạch các chính sách, pháp luật và các quyết định quản lý của bộ máy nhà nước.

Các cơ quan hành chính nhà nước cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc minh bạch hóa các cơ hội đầu tư, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư, minh bạch hóa hoạt động quản lý của Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, còn có nhiều bất cập trong hoạt động công khai thông tin này. Công khai mà không minh bạch là nhận định của nhiều doanh nghiệp, chuyên gia về cách thức lấy ý kiến văn bản pháp luật của nhiều cơ quan nhà nước hiện nay. Nhiều ý kiến đóng góp, phản hồi về văn bản, chính sách từ doanh nghiệp, hiệp hội đối với cơ quan nhà nước không được phản hồi, giải trình, lập luận lại từ phía cơ quan lấy ý kiến. Cách thức lấy ý kiến tạo cảm giác là cho đủ thủ tục mà không đạt mục tiêu như mong muốn là văn bản pháp luật cần phản ánh, cân nhắc đầy đủ các quan điểm khác nhau trong xã hội.

Về thực tiễn lấy ý kiến của người dân trong quá trình hoạch định chính sách cũng như quá trình ban hành các quyết định của cơ quan công quyền, qua kết quả khảo sát của Trung tâm Xanh, một tổ chức NGO về các quy định pháp luật về tham vấn cộng đồng trong lĩnh vực xây dựng, quản lý đô thị cho thấy có một số bất cập trong quá trình thực hiện quyền góp ý của người dân vào việc xây dựng, cải tạo các công trình xây dựng ở địa phương cụ thể:Người dân có quan sát những gì xảy ra nhưng chỉ nói khi được hỏi; người dân chưa chủ động góp ý; người dân không có nơi nào để bày tỏ ý kiến, tại các cuộc họp tổ dân phố, người dân lại chỉ bàn đến quyền lợi sát sườn; các dự án tại cộng đồng thường được khoán trắng cho chính quyền sở tại mà người dân hầu như không được tham gia; chỉ các quy hoạch lớn mới lấy ý kiến của dân; một số người dân có góp ý mà không biết có được tiếp thu hay không.

ii) Về việc thực hiện công khai các thông tin, tài liệu, hồ sơ do các cơ quan hành chính nắm giữ

Bảo đảm thực hiện quyền thông tin của công dân là điều kiện cần thiết cho hoạt động quản lý dân chủ, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong một quốc gia, việc không công khai thông tin đồng nghĩa với thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền trong quá trình thực thi quyền lực công và có thể quyền lực đó sẽ mâu thuẫn hoặc đi ngược lại lợi ích của công chúng, của cộng đồng xã hội. Bảo đảm quyền thông tin sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, làm tăng tính hiệu quả, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước. Bảo đảm quyền thông tin cũng đồng thời bảo đảm sự công bằng, dân chủ và tăng lòng tin của người dân đối với Nhà nước. Việc phản hồi từ phía người dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước cân nhắc, lựa chọn và đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với lòng dân, tăng hiệu quả của chính sách.

Về vấn đề tiếp cận thông tin của người dân trong các quy định pháp luật đã liệt kê ở trên cũng còn nhiều bất cập: Các cơ quan công quyền không công khai thông tin, dẫn đến tình trạng lợi dụng đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin để trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin đã làm hạn chế sự tham gia của tổ chức, công dân vào hoạt động quản lý nhà nước với tính chất là người giám sát, phản biện nhằm hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước. Vẫn còn tình trạng không thể khai thác nhanh chóng những thông tin về quy hoạch, chính sách thuế,… điều này gây thiệt hại đáng kể trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.

Việt Nam đã đi một bước xa trong việc cung cấp các thông tin pháp luật bằng việc sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như các văn bản quy định chi tiết. Tuy nhiên, còn nhiều loại thông tin trong quá trình quản lý nhà nước chưa được công khai rộng rãi. Việc cung cấp thông tin còn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ, công chức. Việc chia sẻ thông tin cũng rất hạn chế trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Các cán bộ, công chức thường có tâm lý tránh rủi ro và kiểm soát thông tin, thiếu ý thức và thiện chí trong việc thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin.

Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định không rõ ràng ranh giới giữa “thông tin mật” và thông tin có thể công khai không những gây cản trở đáng kể đến quyền thông tin và sự tham gia của công chúng mà còn gây khó khăn, lúng túng cho các cán bộ chính quyền trong việc phân loại, sắp xếp để bảo vệ thông tin mật và cung cấp thông tin không thuộc loại mật. Thực tế ở các địa phương cho thấy, công khai tất cả các thông tin về chính sách thu hút đầu tư, quy hoạch, định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế, các thống kê về tình hình kinh tế – xã hội của địa phương, các thủ tục hành chính cụ thể… là yêu cầu quan trọng để mọi doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận. Những thông tin này cần được niêm yết công khai, thuận tiện cho người cần sử dụng như đưa lên Internet qua trang web của tỉnh, cung cấp các thông tin có liên quan bằng CD room, đĩa mềm, phát hành các bản tin định kỳ miễn phí, thành lập các bộ phận hỗ trợ cung cấp thông tin tại các cơ quan xúc tiến đầu tư và liên quan đến hoạt động đầu tư… Thực trạng áp dụng pháp luật cho thấy vấn đề tiếp cận thông tin hiện nay vẫn hoàn toàn thuộc về quyền chủ động của các cơ quan nhà nước mà người dân có rất ít quyền trong vấn đề này.

Ngoài ra, để có thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin, phải có một hệ thống lưu giữ tài liệu cho phép thu thập, lập danh mục, lưu trữ và cung cấp thông tin một cách dễ dàng. Một trong những khó khăn hiện nay là phần lớn tình trạng dữ liệu thông tin phân cắt, một số chưa được chuẩn hóa, chưa được số hóa, sự kết nối giữa các ngành, địa phương chưa cao… Do vậy, cần tập hợp thống nhất toàn bộ dữ liệu, dữ liệu phải được số hóa và chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc gia để dễ quản lý, khai thác sử dụng[3].

iii)Về vấn đề minh bạch ngân sách, tài chính và mua sắm công

Các cơ quan thuộc Chính phủ cũng đã có nhiều nỗ lực để nâng cao tính minh bạch ngân sách đã được thực hiện, bởi quản lý ngân sách nhằm hướng tới mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn lực tài khóa vốn rất hạn hẹp của đất nước. Những hình thức được thực hiện chủ yếu là công khai các chính sách liên quan đến định mức phân bổ, định mức chi tiêu, giao nhiệm vụ thu chi ngân sách và công khai, phổ biến các số liệu, tài liệu liên quan đến việc lập ngân sách hàng năm và quyết toán hàng năm của các cấp ngân sách và đơn vị thụ hưởng ngân sách. Để đảm bảo tính hợp pháp của việc công khai rộng rãi tài chính ngân sách Nhà nước (NSNN), Luật NSNN và nhiều văn bản pháp luật đã quy định rõ, góp phần vào nâng cao khả năng tiếp cận của cộng đồng và người dân đối với việc phân bổ và sử dụng nguồn lực ngân sách.

Để nâng cao hiệu quả công khai, minh bạch ngân sách, tăng cường sự tham gia của người dân, cần phải cải thiện tính minh bạch, công khai trong quy trình ngân sách, mở rộng hình thức và nội dung công khai “Minh bạch thể hiện quyền của người dân và cũng là điều kiện cần có để bộ máy nhà nước tiếp thu trí tuệ của người dân trong thực hiện nhiệm vụ. Sai phạm trong việc sử dụng ngân sách có thể bắt nguồn và được che đậy bởi tình trạng thiếu công khai và minh bạch”. Cần nghiên cứu sửa đổi Luật NSNN, hình thành các khuôn khổ pháp lý có tính ràng buộc để cho các cơ quan, đơn vị có cơ sở để cung cấp các thông tin cần thiết cho cộng đồng cho người dân về các kết quả sử dụng nguồn lực được giao, hình thành các cơ chế phù hợp tạo điều kiện và cơ hội để người dân tham gia vào quy trình ngân sách [[4]]

iv) Về vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của các cán bộ, công chức hành chính: Luật PCTN năm 2005 và các Luật sửa đổi, bổ sung vào năm 2007 và 2012 đã góp phần tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho công tác minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức với việc xác định rõ các đối tượng và nội dung kê khai tài sản, thu nhập. Tuy nhiên, việc minh bạch tài sản, thu nhập hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hình thức, số lượng cán bộ, công chức phải kê khai tài sản quá nhiều dẫn đến việc thiếu hiệu quả trong công tác giám sát, xác minh và xử lý những vi phạm. Bên cạnh đó, nội dung kê khai chưa cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết để phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, chưa được công khai rộng rãi để phát huy hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức của người dân về tính minh bạch của chính quyền.

v) Về việc tham gia của các tổ chức xã hội vào việc thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình

Hiện nay, các tổ chức xã hội cũng đang trong quá trình nỗ lực thúc đẩy học tập, chia sẻ sáng kiến giữa các tổ chức xã hội và các bên liên quan trong việc thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình; giới thiệu mạng lưới Sáng kiến CSOs về minh bạch và trách nhiệm giải trình; giới thiệu sáng kiến của CSOs trong việc xây dựng bộ nguyên tắc về minh bạch và trách nhiệm giải trình, hệ thống giám sát, chứng nhận CSOs thực hành tốt quản trị minh bạch và giải trình và Giải thưởng về thực hành tốt minh bạch và giải trình. Việc nâng cao năng lực cho các CSOs là vấn đề cấp bách, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong đó đặc biệt chú ý tới minh bạch và trách nhiệm giải trình – công cụ xây dựng tổ chức vững mạnh, phát triển bền vững.

3. Một số kiến nghị

Dưới đây là một số kiến nghị nhằm góp phần tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật theo hướng: Ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Luật ban hành quyết định hành chính và quy định trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính trong quá trình ra quyết định hành chính; sửa đổi các đạo luật chuyên ngành để bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính; sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước để phân định rõ thẩm quyền ngân sách trung ương và ngân sách địa phương…

Thứ hai, để tiếp tục nâng cao tính minh bạch của hệ thống pháp luật và tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, cần có những giải pháp thực thi có hiệu quả những quy định của pháp luật trên thực tế. Cần thực hiện tốt việc phản hồi ý kiến đóng góp của nhân dân đối với các dự án văn bản được công bố lấy ý kiến; tổ chức địa điểm để liên hệ, tiếp nhận thông tin, xử lý các ý kiến đóng góp.

Thứ ba, cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng Chính phủ điện tử, công cụ thông tin qua mạng internet và xác lập mối quan hệ tương tác giữa người dân, doanh nghiệp với Chính phủ thông qua các phương tiện công nghệ hiện đại. Chính phủ phải gần và thuận lợi với công dân hơn, bằng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Thứ tư, các cơ quan chính quyền từ trung ương và địa phương cần luôn luôn đổi mới, tăng cường năng lực, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý nhà nước.

Thứ năm, tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội vào việc thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình; huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng và báo chí vào việc thúc đẩy các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Dương Thị Bình, Đỗ Thị Huệ

Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính



[1] http://lypham.net/joomla/index.php?option=com_content&task=view&id=251&Itemid=2

[2]TS. Nguyễn Tuấn Khanh(Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra), http://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201309/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-trach-nhiem-giai-trinh-292197/

[3] Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Thái Bình, Báo cáo tình hình tiếp cận thông tin, 2009

[4]http://www.tapchitaichinh.vn/Nghien-cuu-dieu-tra/Phai-cong-khai-minh-bach-tien-cua-dan/30645.tctc

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191