Phân tích Tội chiếm giữ trái phép tài sản

TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN (ĐIỀU 141)

Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản do bị giao nhầm, do tìm được, bắt được sau khi đã có yêu cầu nhận lại tài sản đó.

Tội chiếm giữ trái phép tài sản quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm được nhập từ từ tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân quy định tại Điều 159 và tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung nặng hơn quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này. Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới hơn, đặc biệt trong cấu thành cơ bản, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm giữ trái phép làm ranh giới giữa hành vi được coi là tội phạm với hành vi không coi là tội phạm, đồng thời quy định một số loại tài sản là cổ vật hoặc có giá trị lịch sử, văn hoá là đối tượng phạm tội mà không cần xác định giá trị của tài sản đó. Hình phạt bổ sung cũng được quy định ngay trong điều luật.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

  1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này có hai khoản nhưng không có trường hợp nào quy định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

  1. Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội chiếm giữ trái phép tài sản, không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội có tính chất chiếm đoạt như cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy, nếu sau khi đã chiếm giữ được tài sản, người phạm tội bị đòi lại tài sản mà có hành vi dũng vũ lực, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

  1. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Trước hết, người phạm tội có được tài sản là do bị giao nhầm, do mình tìm được hoặc bắt được (nhặt được).

Trong trường hợp bị giao nhầm, cần xác định người phạm tội hoàn toàn không có thủ đoạn nào để bên giao tài sản tưởng nhầm mà giao tài sản cho mình, nếu người phạm tội có thủ đoạn gian dối để bên giao tài sản nhầm mà giao tài sản cho mình thì không phải là bị giao nhầm mà là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Trường hợp tìm được tài sản, trong một số trường hợp cần xác định tài sản mà người phạm tội tìm được là việc tìm kiếm trái phép, nếu việc tìm kiếm đó được phép hoặc Nhà nước không cấm thì tài sản tìm được thuộc quyền sở hữu của người tìm được. Ví dụ: Đào được vàng trong bãi đào vàng Nhà nước không quản lý hoặc người đào vàng đã được cấp giấy phép.

Bắt được (nhặt được) tài sản là trường hợp nhặt được của rơi, theo quan điểm truyền thống đạo đức thì nhặt được của rơi nên trả lại cho người bị mất là người thật thà, được xã hội coi đó là hành vi đẹp. Tuy nhiên bên cạnh đó lại có nhiều người theo quan điểm “cá vào ao ai người đó được” nên mỗi khi nhặt được của rơi thường buộc người bị mất phải “chuộc” và những người bị mất tài sản coi việc chuộc lại tài sản là phải đạo vì dù sao thì tài sản cũng đã bị mất rồi. Bộ luật hình sự quy định hành vi bắt được tài sản phải trả lại cho chủ sở hữu nếu cố tình không trả là hành vi phạm tội cũng là để giáo dục mọi người phát huy truyền thống đạo đức không tham lam nếu tài sản đó không do sức lao động của mình làm ra. atuy nhiên, pháp luật cũng chỉ quy định bắt được tài sản có giá trị nhất định (từ 50.000.000 đồng trở lên) mà cố tình không trả lại cho chủ sở hữu thì mới là hành vi tội phạm.

Không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là hành vi cố tình giữ tài sản do bị giao nhầm, do tìm được hoặc bắt được khi đã có yêu cầu của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Có thể người phạm tội thừa nhận tìm được, bắt được nhưng cho rằng tài sản đó thuộc sở hữu của mình, nhưng cũng có thể không thừa nhận là mình đã được giao nhầm, đã tìm được hoặc bắt được, nhất là trường hợp được giao nhầm.

Yêu cầu nhận lại tài sản bị giao nhầm, do người phạm tội tìm được hoặc bắt được là yêu cầu của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Nếu chưa có yêu cầu nhận lại tài sản hoặc  yêu cầu đó không phải của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản thì chưa cấu thành tội phạm tội này.

Hậu quả

Hậu quả của tội phạm này là tài sản bị giao nhầm, bị mất, bị rơi không thu hồi được. Tuy nhiên, nếu là tài sản bình thường không phải là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì phải có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên thì mới cấu thành tội phạm này.

Nếu tài sản là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì không cần phải có giá trị từ 50.000.000 đồng vẫn bị coi là tội phạm

Theo quy định của Luật di sản văn hoá được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2001 và Chủ tịch nước công bố ngày 12-7-20001, thì cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ một trăm năm trở lên. Tuy nhiên, Luật này không quy định thế nào là vật có giá trị lịch sử, văn hoá, mà chỉ quy định di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Căn cứ vào quy định này, ngoài danh lam thắng cảnh không là đối tượng chiếm hữu trái phép được thì di tích lịch sử – văn hoá, di vật, bảo vật quốc gia đều được coi là vật có giá trị lịch sử văn hoá.

Theo quy dịnh của Luật về di sản thì, di tích lịch sử – văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; di vật là vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử văn hoá, khoa học; bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học.

Cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá là vật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định đó là cổ vật, là vật có giá trị lịch sử văn hoá. Nói chung trong những trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần trưng cầu giám định.

  1. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm

Cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt, tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn giữ bằng được tài sản do bị giao nhầm, tìm được hoặc bắt được. Ngoài mục đích này, người phạm tội không có mục đích nào khác và mục đích này cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

  1. Phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội chiếm giữ trái phép tài sản. So với tội chiếm giữ trái phép tài sản quy định tại Điều 159, khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ tính về hình phạt thì khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 136 và Điều 159. Vì vậy, đối với hành vi chiếm giữ trái phép tài sản  xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 (ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không được áp dụng khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999, mà phải áp dụng Điều 159 hoặc khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các tình tiết định tội, thì khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985 vì khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định giá trị tài sản bị chiếm giữ trái phép, nhưng đó là dấu hiệu định tội nên không có ý nghĩa trong việc so sánh để áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 hay Bộ luật hình sự năm 1985.

Khi áp dụng khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự cần chú ý một số điểm sau:

Đối với tài sản bị giao nhầm, cần có các tài liệu chứng minh đúng là có việc giao nhầm tài sản, thông thường trong những trường hợp này người phạm tội không thừa nhận có việc được giao nhầm tài sản. Vì vậy, cần phải có bằng chứng , chứng minh có việc giao nhầm tài sản, đồng thời người đã có hành vi giao nhầm tài sản phải thông báo cho người được giao nhầm tài sản biết. Nếu còn có nghi ngờ về việc có hay không có việc giao nhầm thì chưa cấu thành tội phạm này.

Đối với tài sản là cổ vật, là vật có giá trị lịch sử văn hoá, ngoài việc xác định tài sản đó là cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá thì các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải xác định xem đã có yêu cầu của người có trách nhiệm quản lý tài sản đó hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã có thông báo yêu cầu người phạm tội phải trả lại tài sản đó chưa, cùng với việc ra thông báo các cơ quan có thẩm quyền cần giáo dục động viên người chiếm giữ trái phép cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn hoá giao vật đó cho cơ quan có thẩm quyền, chỉ khi nào người chiếm giữ cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá cố tình không giao nộp cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá cho cơ quan, tổ chức thì mới coi là tội phạm.

Giá trị tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng là giá thị trường tự do vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội (từ khi người phạm tội cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp).

Khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm ít nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù, nên đối với người phạm tội dưới 16 tuổi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phụ thuộc vào những yếu tố sau:

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có ít hoặc không có tình tiết tăng nặng;

– Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ được phạt nhẹ hơn người có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Tài sản bị chiếm giữ trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng;

– Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng chưa tới mức được miến trách nhiệm hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với họ.

  1. Chiếm giữ trái phép tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự

Chiếm giữ trái phép tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên

Trường hợp phạm tội này không có gì đặc biệt, chỉ cần xác định tài sản bị chiếm giữ trái phép có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự. Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm giữ trái phép cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật.   

Chiếm giữ trái phép cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá có giá trị đặc biệt

Trường hợp phạm tội này chỉ khác khoản 1 của điều luât là cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá không phải là cổ vật hoặc vật có giái trị lịch sử văn hoá bình thường mà nó có giá trị đặc biệt. Giá trị đặc biệt ở đây không phải là giá trị tính ra được bằng tiền mà nó có giá trị đặc biệt về truyền thống văn hoá, về lịch sử của đất nước, của dân tộc. Việc xác định cổ vật nào; vật có giá trị lịch sử, văn hoá nào là vật có giá trị đặc biệt phải có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, trong trường hợp này nhất thiết phải có giám định của cơ quan chuyên môn.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt, cần chú ý một số điểm sau:

Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới một năm tù) nhưng không được dưới ba tháng tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu không chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ mà người phạm tội có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể được Toà án cho hưởng án treo. Nói chung, đường lối xét xử đối với người phạm tội chiếm giữ  trái phép tài sản chủ yếu lấy giáo dục là chính, chỉ nên áp dụng hình phạt tù đối với những trường hợp nghiêm trọng.

 Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì:

 – Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 141 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ;

– Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự sẽ bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặng;

– Tài sản bị chiếm giữ trái phép càng có giá trị cao, hình phạt càng nặng và ngược lại.

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191