Quyền tự định đoạt của đương sự – Một số khó khăn, bất cập và hướng hoàn thiện
11/06/2015
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong Tố tụng dân sự (TTDS) là một trong những nguyên tắc cơ bản, chi phối quá trình TTDS. Tuy nhiên, thực tế trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện nguyên tắc này vẫn chưa được bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất.
I) Một số nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Thứ nhất, về quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự. Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Và theo Điều 162 BLTTDS thì: “cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ … Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”.
Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Người yêu cầu trong vụ việc dân sự có lợi ích hợp pháp độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết như nguyên đơn trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự là một trong những quyền cơ bản của đương sự trong tố tụng dân sự. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của đương sự đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự trên thực tế.
Với việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự kịp thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt được hành vi trái pháp luật.
2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong tố tụng dân sự, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngượi lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện. BLTTDS năm 2004 đã dành một số điều quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị bù trừ đối với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra, BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự vi phạm thủ tục trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với quyền tự định đoạt của đương sự.
3. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây: việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Đối với người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ cũng giống như việc tham gia tố tụng của người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự hoặc theo yêu cầu của Tòa án.
4. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu.
Tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên tòa thì quyền này là quyền tuyệt đối của đương sự, theo đó đương sự có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tùy ý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì tại phiên tòa việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu. Mục 6, phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai: “ Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS quy định “ Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…”.
Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện ( điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong trường hợp nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút đơn yêu cầu đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu nguyên đơn đó rút ( khoản 2 Điều 218 BLTTDS ). Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn; nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn ( Điều 219 BLTTDS ).
Trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự thì để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên đương sự. Điều 269 BLTTDS quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết. Nếu bị đơn, không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án
5. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự.
Điểm a khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hòa giải phải được tiến hành theo nguyên tắc sau: “ Tôn trọng sử tự nguyện thỏa thuận của các đương sự… Không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Cơ sở của hòa giải là quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 10 BLTTDS quy định: “ Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Nguyên tắc quyền định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thể hiện ở quyền tự thỏa thuận của đương sự.
Điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS, Điều 220 BLTTDS, quy định về các trường hợp tòa án công nhận sự thỏa thuận của các bên (ở phiên tòa sơ thẩm ) để ra các quyết định: đình chỉ giải quyết vụ án, công nhận sự thỏa thuận của đương sự. (Ngoài ra nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự còn được thể hiện tại giai đoạn phúc thẩm thể hiện ở việc hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận thỏa thuận của các đương sự ).
Như vậy, với ý nghĩa cơ bản là một nội dung của quyền tự định đoạt của đương sự, quyền thỏa thuận giải quyết vụ việc của đương sự là một quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, trừ trường hợp BLTTDS quy định không được tiến hành hòa giải.
6. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chon người đại diên, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để bảo về quyền, lợi ích hơp pháp của mình, các đương sự tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ hoặc đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là người đại diện theo ủy quyền của đương sự. Tuy vậy, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc dân sự sau khi ủy quyền cho người đại diện đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người đại diện. Việc cử người đại diện theo sự ủy quyền này, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự.
Theo điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đương sự có quyền mời luật sư hoặc người khác được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng. Quyền nhờ người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình là biểu hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự do hai bên quyết định. Đây cũng là một quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
7. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bảo án, quyết định của tòa án.
Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự được quy định tại điểm c khoản 2 điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì đương sự được tự thực hiện quyền này nên theo nghĩa rộng quyền kháng cáo cũng thuộc quyền tự định đoạt của đương sự.
Ngoài việc quy định đương sự có quyền kháng cáo thì pháp luật cũng quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Theo quy định tại khoản 1 điều 256 BLTTDS thì đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi thay đổi phiên tòa hoặc tại phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết và Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần rút kháng cáo.
II) Tồn tại, khó khăn và kiến nghị hoàn thiện
1. Những mặt tồn tại, khó khăn
Thứ nhất, Khoản 1 Điều 56 BLTTDS quy định đương sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Với quy định này, BLTTDS mới chỉ quy định về đương sự trong vụ án dân sự tại Đều 5 còn các chủ thể có yêu cầu trong việc dân sự lại chưa được bộ luật công nhận cho một “danh phận tố tụng” cụ thể. Sự thiếu hụt này đã gây không ít khó khăn cho đương sự trong vụ việc dân sự khi họ tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ hai, Địa vị tố tụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là khác nhau. Nhưng hiện nay pháp luật tố tụng lại chưa có quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của hai chủ thể này nên việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn nhiều vướng mắc.
Thứ ba, Việc BLTTDS quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn là vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự. Bởi nói đến tự định đoạt tức là pháp luật cho đương sự cái quyền quyết định khởi kiện, hay tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình, cho nên việc đương sự rút đơn khởi kiện ở bất kì giai đoạn nào cũng là hình thức thực hiện quyền tự định đoạt của mình, do đó quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại giai đoạn phúc thẩm phải hỏi ý kiến của bị đơn sẽ không đảm bảo được quyền tự định đoạt của ĐS.
Thứ tư, Hiện nay, BLTTDS quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và việc dân sự khác nhau, nhưng lại không quy định thủ tục chuyển hóa trong việc giải quyết giữa các vụ việc dân sự dẫn đến làm phức tạp hóa quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể, gây khó khăn cho đương sự trong việc định đoạt bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ năm, BLTTDS mới chỉ quy đinh quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại Điều 176 và 177 của Bộ luật này mà chưa quy định cụ thể thời điểm thực hiện việc phản tố của bị đơn và đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc quy định không rõ ràng thời điểm bị đơn được đưa ra yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được đưa ra yêu cầu độc lập đã có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra các loại yêu cầu này. Vì trên thực tế mỗi Tòa án có những cách hiểu khác nhau nên áp dụng không thống nhất, có Tòa án chấp nhận cả việc đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập tại phiên tòa, có tòa án không chấp nhận.
Thứ sáu, Về quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự BLTTDS quy định còn mâu thuẫn và chưa rõ ràng dẫn đến việc hiểu và thực hiện không thống nhất ví dụ như Điều 218 BLTTDS quy định Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu, nhưng không giải thích cụ thể “vượt quá” ở đây là như thế nào. Với việc quy định như trên đã hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự, không những gây khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của mình mà có thể tạo ra thành nhiều vụ án khác nhau bởi đương sự không được thay đổi, bổ sung yêu cầu theo hướng vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu ở tại phiên tòa thì họ sẽ phải khởi kiện ở vụ án khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Do đương sự không hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp luật nên không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ TTDS. Trên thực tế, có không ít trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi đã hết thời hiệu khởi kiện nên bị trả lại đơn. Hoặc có đương sự thực hiện quyền kháng cáo, đối với bản án, quyết định của Tòa án trong nhiều trường hợp không đúng thời hạn do pháp luật quy định nhưng đương sự vẫn kháng cáo.
Thứ bảy, Về phía tòa án, do đội ngũ thẩm phán vẫn còn một số thiếu và yếu cả về năng lực, chuyên môn nghiệp vụ nên có những sai sót, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Thực tế cho thấy có những sai sót trong việc trả lại đơn khởi kiện, không xem xét hết các yêu cầu của đương sự hoặc quyết định của bản án vượt phạm vi yêu cầu đương sự, xét xử vắng mặt đương sự, áp dụng không đúng pháp luật nội dung trong việc giải quyết vụ án…vẫn còn tồn tại. Chính điều này đã hạn chế không ít đến việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dấn sự.
2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Để quy định BLTTDS về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được thực hiện tốt trên thực tế thì cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn một số quy định cụ thể hơn như sau:
Một là, BLTTDS nên quy định bổ sung về đương sự trong việc dân sự để họ có thể bảo vệ quyền, lợi ích của mình một cách hiệu quả , tức là phải sửa đổi Điều 56 BLTTDS theo hướng quy định các đương sự trong việc dân sự cũng như quy định các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ như các đương sự trong vụ án dân sự.
Hai là, Nên quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và nghĩa vụ khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau. Trong khi đó thực tiễn cho thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập không thể có địa vị tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn hoặc bị đơn, họ không có yêu cầu độc lập về đối tượng tranh chấp của vụ kiện nên họ không có quyền độc lập thỏa thuận với bên đương sự kia, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia, không có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu vụ kiện trong khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có địa vị tố tụng giống như nguyên đơn.
Ba là, không nên quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị đơn. Bởi nó sẽ vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự; do trong các tranh chấp dân sự, đương sự được quyền tự mình quyết định yêu cầu hay không yêu cầu Tòa án giải quyết, thì họ cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của mình ở mọi giai đoạn tố tụng. Do vậy, để hợp lý và không vi phạm nguyên tắc này thì cần sửa đổi Điều 269 theo hướng cho đương sự thực hiện tốt nhất quyền tự định đoạt của mình trong TTDS. Nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có khởi kiện rồi rút đơn khởi kiện mà gây thiệt hại cho họ về danh dự, nhân phẩm hoặc với tài sản thì họ có quyền yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại.
Bốn là, Cần quy định bổ sung thời điểm bị đơn thực hiện phản tố trước phiên tòa. Và cần quy định nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, bị đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình ở mọi giai đoạn tố tụng. Để tránh trường hợp đương sự lạm dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho đương sự từ phía bên kia và Tòa án trong giải quyết việc dân sự. Vì vậy, cần quy định việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa được Tòa án chấp nhận nếu không phải hoãn phiên tòa.
Năm là, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Thẩm phán – người trực tiếp giải quyết vụ án; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để tất cả mọi người có chiều sâu hiểu biết pháp lý, thực hiện tốt quyền tự định đoạt có một cách hiệu quả nhất, bởi pháp luật TTDS đã dành cho đương sự có quyền thự mình thu thập tài liệu chứng cứ, chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp./.
Bài luận liên quan:
- Thủ tục kháng án giành quyền nuôi con
- Giao dịch bất động sản qua sàn: “Lợi bất cập hại”, giữ hay bỏ?
- Quyền tự định đoạt của đương sự – Một số khó khăn, bất cập và hướng hoàn thiện
- Áp dụng tập quán trong pháp luật dân sự- những vướng mắc, bất cập cần hoàn thiện
- Chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù: Lợi ích, căn cứ, điều kiện
- Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đương sự trong vụ án dân sự
- Giám định thương mại trong Luật Thương mại Việt Nam
- Những điểm mới theo quy định của Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN
- Một số bất cập trong quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử – kiến nghị hoàn thiện
- Những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm khi chuyển đổi phòng công chứng số 2 tại Lâm Đồng
- Vai trò của ngành tâm lý học
- Khái niệm, đặc điểm của chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực thẩm mỹ
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.