PGS.TS. Hoàng Thế Liên – Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp – Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội: Chỉ dạy những gì xã hội cần chứ không dạy những gì trường sẵn có
09/11/2009
– PGS.TS. Hoàng Thế Liên: Tôi mới được Ban Cán sự, Lãnh đạo Bộ Tư pháp phân công làm Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội (Trường ĐHLHN), nhưng trong một thời gian dài trước đó, tôi được Bộ trưởng phân công phụ trách mảng đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học và trực tiếp phụ trách Trường ĐHLHN. Qua theo dõi của bản thân, tôi thấy trong suốt 30 năm qua, Trường ĐHLHN đã trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt, từ một cơ sở nhỏ bé, được thành lập ở thời điểm nước ta đang bộn bề công việc của quá trình tái thiết đất nước sau chiến tranh, khó khăn, thiếu thốn đủ bề, nay đã trở thành trung tâm đào tạo cán bộ pháp luật lớn nhất của đất nước.
Sự trưởng thành về tầm vóc, những đóng góp cho sự nghiệp chung của Trường thì rất nhiều, nhưng có thể đúc kết lại ở một số khía cạnh.
Thứ nhất,về phát triển năng lực và chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học: Trường ĐHLHN là cơ sở đào tạo đại học luật đầu tiên của chế độ mới và cho đến nay vẫn là cơ sở đào tạo luật có chất lượng, năng lực và uy tín hàng đầu ở Việt Nam ở tất cả các trình độ, bậc học, hình thức đào tạo. Đội ngũ cán bộ, giảng viên của Trường trưởng thành vượt bậc, từ chỗ chỉ có 67 cán bộ, giảng viên (trong đó chỉ có 17 giáo viên) khi thành lập, đến nay Trường đã có 413 cán bộ, giáo viên, trong đó có 248 giảng viên với 7 giáo sư và phó giáo sư, 87 tiến sỹ, 116 thạc sỹ, 5 nhà giáo ưu tú, 84 giảng viên chính. Cơ cấu tổ chức của Trường khi mới thành lập chỉ có 4 khoa và một số phòng, ban. Đến nay, Trường đã có 8 khoa, 2 bộ môn trực thuộc Ban giám hiệu và 16 phòng, ban, trung tâm. Chương trình, giáo trình, tài liệu tham khảo từ chỗ chưa có gì, nay đã có đầy đủ chương trình đào tạo của các cấp học, các hình thức đào tạo với nhiều lần sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp; Trường đã xây dựng được 39 bộ giáo trình hệ đại học, 11 bộ giáo trình hệ trung học và hàng trăm đầu sách tham khảo, chuyên khảo do các cán bộ giảng viên nhà trường biên soạn. Cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng khang trang, đầy đủ hơn rất nhiều và đang tiếp tục được hoàn thiện để phục vụ hoạt động giảng dạy và học tập…
Thứ hai, về kết quả đào tạo và nghiên cứu khoa học: Trường là cơ sở đào tạo luật có đóng góp nhiều nhất cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ pháp luật, luật sư, luật gia, các nhà nghiên cứu luật học cho đất nước. Suốt 30 năm qua, Trường đã đào tạo cho đất nước hơn 60.000 cán bộ pháp luật, trong đó có 96 tiến sĩ, 823 thạc sĩ, gần 56.000 cử nhân đại học, hơn 500 cử nhân cao đẳng và hơn 6.000 trung cấp luật, chiếm trên 60% tổng số cán bộ pháp luật đã được đào tạo của cả nước; đã và đang đào tạo 200 cán bộ pháp lý cho các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia, Yêmen và tiếp nhận nhiều thực tập sinh từ các nước như Thuỵ Điển, Nhật Bản…
Hoạt động nghiên cứu khoa học cũng đạt nhiều thành tích. Chỉ tính từ năm 2004 đến 2009, cán bộ, giáo viên của Trường đã chủ trì và tham gia thực hiện 9 đề tài khoa học cấp nhà nước, 25 đề tài khoa cấp bộ và 72 đề tài khoa học cấp trường, 64 cuộc hội thảo khoa học. Tạp chí Luật học của Trường tiếp tục giữ vững tôn chỉ, mục đích, bảo đảm chất lượng và uy tín, được công nhận là một trong hai tạp chí luật có uy tín nhất ở Việt Nam. Các trung tâm nghiên cứu khoa học của Trường tiếp tục được củng cố và phát triển…
Thứ ba, về đóng góp cho việc phát triển các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam: Trong 30 năm qua, Trường ĐHLHN đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo nói chung, phát triển hoạt động đào tạo luật ở Việt Nam nói riêng. Từ Trường ĐHLHN đã khai sinh ra hai cơ sở đào tạo lớn của đất nước là Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (được xây dựng từ Phân hiệu của Trường ĐHLHN tại TP. Hồ Chí Minh) và Học viện Tư pháp (được xây dựng từ Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán và các chức danh tư pháp khác của Trường ĐHLHN). Trường đã tham gia đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ khoa học có trình độ cao cho các cơ sở đào tạo luật khác ở Việt Nam. Bên cạnh đó, rất nhiều giảng viên của Trường đang là giáo viên thỉnh giảng, cộng tác viên ở rất nhiều cơ sở đào tạo công lập cũng như ngoài công lập. Hệ thống giáo trình của Trường cũng được sử dụng chính thức hoặc được tham khảo rộng rãi ở nhiều cơ sở đào tạo luật khác của Việt Nam.
Thứ tư, về đóng góp cho ngành Tư pháp và cho đất nước nói chung: Trường đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao, góp phần xứng đáng vào việc đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, khắc phục tình trạng thiếu cán bộ pháp lý đã kéo dài trong nhiều năm, không ngừng nâng cao trình độ và từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tư pháp; tham gia tích cực vào các hoạt động xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật; nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống pháp luật và cải cách tư pháp. Đặc biệt, nhiều cán bộ, giảng viên, học viên của Trường của các thế hệ khác nhau đã trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương, những nhà nghiên cứu có tên tuổi, đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế thị trường, sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ quốc phòng – an ninh của nước ta.
– Thưa ông, nếu đánh giá khách quan thì theo ông, những mặt nào Trường vẫn còn nhiều tồn tại và chưa làm tốt được?
– PGS.TS. Hoàng Thế Liên: Bên cạnh những thành tựu, đóng góp rất to lớn của Trường như đã nói ở trên, tôi thấy, một số mặt hoạt động của Trường vẫn còn “vơi”, nhất là so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho Trường trong giai đoạn mới, với tiềm năng sẵn có của Trường và những cơ hội mà công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, phát triển kinh tế thị trường đã trải ra cho Trường để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn trong thời gian tới. Có thể kể đến một số hạn chế, bất cập như: Chất lượng đào tạo của Trường tuy được đánh giá là tốt hơn so với các cơ sở đào tạo luật khác nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu thực tiễn và vị thế của nhà trường. Sinh viên tốt nghiệp chưa thực sự vững vàng về kiến thức chuyên môn, còn yếu về các kiến thức bổ trợ, nhất là ngoại ngữ và tin học, thiếu kỹ năng hành nghề luật. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến cử nhân luật khó xin được việc làm phù hợp với chuyên môn.
Qui mô đào tạo còn chưa tương xứng với năng lực của nhà trường và nhu cầu xã hội. Chỉ tiêu đào tạo khoảng 1.600 sinh viên chính quy, 70 thạc sĩ và 10 tiến sĩ hàng năm (với mức tăng trung bình 5%/năm) tuy cao hơn các cơ sở khác nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu đào tạo cán bộ pháp luật hiện nay. Với năng lực hiện có, nhà trường hoàn toàn có thể gia tăng chỉ tiêu đào tạo để đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội.
Chương trình và phương pháp đào tạo tuy có đổi mới nhưng vẫn còn bất cập. Các chuyên ngành đào tạo ít mang tính hướng nghiệp. Cơ cấu các chuyên ngành còn thiếu linh hoạt. Phần lớn các môn học đều được thiết kế từ nhiều năm về trước đến nay nhiều môn đã có những nội dung không thật phù hợp nhưng được sửa đổi kịp thời. Phương pháp đào tạo tuy đã được cải tiến nhiều trong thời gian gần đây nhưng vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, ít tính đối thoại giữa người dạy và người học. Sinh viên ít có cơ hội tiếp cận thực tế trong quá trình học tập (ngoại trừ một kỳ thực tập cuối khóa nhưng nặng về hình thức, không mang tính thực chất). Phương pháp đánh giá kiến thức và công nhận kết quả học tập còn chưa có khả năng phân hóa rõ rệt năng lực và ý thức học tập cũng như tư duy sáng tạo của từng sinh viên, nhất là để đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên.
Tiềm năng nghiên cứu khoa học và làm dịch vụ pháp lý còn chưa được khai thác hết.Số đề tài nghiên cứu hàng năm còn ít và chủ yếu là đề tài cấp trường, cấp bộ; chưa có nhiều đề tài cấp Nhà nước. Chưa có những đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về luật học. Hoạt động tư vấn, phản biện chính sách và cung cấp dịch vụ pháp luật chất lượng cao chưa được triển khai.
Còn thiếu đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, chuyên gia pháp luật cao cấp, số lượng chuyên gia đầu đàn trong từng lĩnh vực còn ít. Chưa có sự kết hợp hài hòa giữa đội ngũ giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng trong hoạt động đào tạo. Năng lực của một bộ phận giảng viên cơ hữu còn hạn chế, chưa tương xứng với nhiệm vụ đào tạo luật trong tình hình hiện nay. Số giảng viên am hiểu pháp luật quốc tế, có thể nghiên cứu và giảng dạy bằng tiếng Anh còn ít.
Năng lực hội nhập, cạnh tranh và hợp tác, đặc biệt là hợp tác quốc tế, còn nhiều hạn chế. Mặc dù là cơ sở đào tạo hàng đầu của cả nước nhưng nhà trường chưa có các khóa học dành riêng cho sinh viên nước ngoài, chưa mời được các giáo sư, chuyên gia pháp luật các nước cộng tác thường xuyên trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu. Số sinh viên nước ngoài học tập tại trường còn ít, chủ yếu đến từ một vài nước chậm phát triển ở Châu Á. Hoạt động hợp tác quốc tế chưa thật chủ động, còn “ăn đong”, hiệu quả hợp tác quốc tế chưa cao….
Những hạn chế, bất cập trên đây đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch đào tạo, nghiên cứu của trường, đồng thời là thử thách không nhỏ đối với Trường trên con đường phấn đấu để không bị tụt hậu so với một số cơ sở đào tạo luật khác đang vươn lên rất mạnh mẽ trong thời gian gần đây, cũng như để vươn tới mục tiêu trở thành trường đại học trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật.
– Một trong những tồn tại của các trường đại học ở nước ta hiện nay nói chung và Trường ĐHLHN nói riêng là việc đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, ít thực tiễn; công tác định hướng nghề nghiệp cho sinh viên cũng chưa được quan tâm đúng mức. Xin ông cho biết, trong thời gian tới đây, Trường sẽ làm gì để khắc phục những tồn tại này để đạt được mục tiêu trở thành cơ sở đào tạo luật hàng đầu ở trong nước và giữ vị trí xứng đáng trong khu vực?
– PGS.TS. Hoàng Thế Liên: Đúng như phóng viên nhận xét và cũng như tôi đã nêu ở trên, một trong những hạn chế trong hoạt động đào tạo của Trường ĐHLHN nói riêng, các cơ sở đào tạo luật của nước ta hay rộng hơn là hoạt động đào tạo đại học của nước ta nói chung là nặng về lý thuyết, ít tính thực tiễn. Tất nhiên, nói lý thuyết ở đây là lý thuyết suông, chứ nếu lý thuyết thật sự, lý thuyết “xịn” thì vẫn rất cần cho bất kỳ hoạt động đào tạo đại học nào. Để khắc phục tình trạng lý thuyết suông, thời gian tới, Trường sẽ tập trung áp dụng nhiều giải pháp khác nhau, trong đó tập trung mạnh vào một số giải pháp chính.
Nhà trường sẽ tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo với việc chuyển hướng mạnh sang đào tạo hướng nghiệp. Xây dựng các chuyên ngành đào tạo theo hướng bám sát và đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp của cử nhân luật trong tương lai sẽ làm cán bộ nghiên cứu, xây dựng pháp luật, hành nghề luật (thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng viên, điều tra viên), cán bộ pháp chế doanh nghiệp, cán bộ tư pháp cơ sở… Có thể nghiên cứu để thực hiện phân kỳ đào tạo cử nhân luật thành hai giai đoạn: đào tạo kiến thức pháp luật chung và đào tạo kiến thức nghề nghiệp, đảm bảo dành từ 30 đến 40 thời gian của một khóa đào tạo cử nhân luật (tương đương từ một năm rưỡi đến hai năm) cho việc đào tạo kiến thức nghề nghiệp. Giảm dần các môn học bắt buộc đối với sinh viên, tăng tỷ lệ các môn tự chọn lên khoảng 30% tổng số các môn học của từng chuyên ngành.
Bên cạnh đó, Trường cũng sử dụng triệt để các phương pháp giảng dạy tích cực “lấy người học làm trung tâm” nhằm phát huy tính chủ động của người học (như các phương pháp: giải quyết tình huống, thảo luận nhóm, diễn án…). Thực hiện chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế hiện nay sang đào tạo theo học chế tín chỉ cho tất cả các môn học thuộc các chuyên ngành, các hệ đào tạo. Chú trọng tăng cường kiến thức thực tế cho sinh viên. Trang bị kiến thức thực tế là yêu cầu không thể thiếu đối với những người học luật nhưng cũng là khâu rất yếu của sinh viên các cơ sở đào tạo luật ở nước ta hiện nay. Do vậy công tác đào tạo của nhà trường trong thời gian tới phải tập trung vào việc tăng cường kiến thức thực tế cho sinh viên theo nguyên tắc sinh viên học cái gì phải biết và làm được cái đó. Trường cần thực hiện lồng ghép chương trình rèn luyện kỹ năng và nội dung từng môn học, đưa thêm các môn học về kỹ năng nghề nghiệp vào chương trình đào tạo chuyên ngành. Xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống phòng học thực hành, phòng diễn án phục vụ nhu cầu của sinh viên. Giảm dần một cách hợp lý thời lượng các giờ giảng lý thuyết, tăng thời lượng các giờ thảo luận và tự học của sinh viên. Cộng tác chặt chẽ với các cơ quan tư pháp, các tổ chức tư vấn pháp luật, văn phòng luật sư để đưa sinh viên đến thực tập, tìm hiểu thực tế về hoạt động xét xử, hoạt động tư vấn. Đổi mới công tác thực tập theo hướng lồng ghép các khóa học thực tế, các chương trình đi tìm hiểu thực tế vào trong suốt quá trình đào tạo thay vì chỉ bố trí cho sinh viên đi thực tập tốt nghiệp cuối khóa như hiện nay. Tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm khoa học, sinh hoạt chuyên môn cho giảng viên và sinh viên, mời các cán bộ lãnh đạo cao cấp, các nhà quản lý, luật sư, chuyên gia pháp luật tham dự và thuyết trình. Tổ chức các buổi xử án lưu động tại Trường.
Thứ ba,phát triển nghiên cứu khoa học và cung cấp dịch vụ pháp lý chất lượng cao theo nhu cầu của xã hội phải được xác định là một trong những trọng tâm hoạt động của Trường nhằm khai thác hết tiềm năng, thế mạnh sẵn có đồng thời mở ra những hướng đi mới cho nhà trường trong tương lai, nhất là để góp phần tăng thêm tính thực tiễn trong hoạt động dạy và học. Trường sẽ xây dựng chính sách phù hợp để khuyến khích cán bộ, giảng viên và sinh viên tích cực tham gia nghiên cứu khoa học; khuyến khích những giảng viên, học viên có khả năng tham gia hoạt động tư vấn và làm dịch vụ pháp lý. Trường sẽ quan tâm mở rộng hợp tác về nghiên cứu khoa học với các cơ sở đào tạo, các viện nghiên cứu, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước; tiến hành các hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học khác để tăng cường phát triển các nguồn lực của trường. Ký kết các hợp đồng dịch vụ thường xuyên hoặc vụ việc với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp và các cơ quan đoàn thể, cá nhân khác để cung cấp dịch vụ pháp luật chất lượng cao, như dịch vụ tư vấn và phản biện chính sách phát triển kinh tế – xã hội, phản biện dự án luật, tham gia đấu thầu xây dựng dự án luật, đánh giá nhu cầu xây dựng pháp luật, điều tra xã hội học trong lĩnh vực pháp luật, v.v…
Thứ tư, xây dựng đội ngũ giảng viên vừa giỏi chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và tinh thông về kỹ năng nghề nghiệp. Xây dựng cơ chế và tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên tham gia thực hiện các hoạt động thực tiễn như: tham gia xây dựng, thẩm định, góp ý các văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện một số hoạt động tư vấn pháp luật; tham gia làm Hội thẩm nhân dân; thực hiện một số hoạt động tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp. Đặc biệt, Trường sẽ đề nghị Bộ xây dựng cơ chế luân chuyển để đưa một số giảng viên của Trường về công tác tại Bộ và các cơ quan tư pháp, cơ quan thi hành án ở địa phương. Bên cạnh đó, Trường sẽ chú trọng mời các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, điều tra viên, chuyên gia pháp luật, cán bộ quản lý đang công tác tại các tòa án, các cơ quan tư pháp, các cơ quan đơn vị hành chính – sự nghiệp và các tổ chức xã hội – nghề nghiệp khác tham gia giảng dạy và hướng dẫn thực hành cho sinh viên.
Với mỗi biện pháp, Trường sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể để làm sao tăng thêm tính thực tiễn trong mỗi giờ học cho sinh viên. Trường sẽ quyết tâm thực hiện chủ trương: Dạy những gì xã hội cần chứ không dạy những gì Trường sẵn có.
– Xin trân trọng cảm ơn ông.
Trường Khanh (thực hiện)
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.