CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG DÂN SỰ RÚT GỌN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

Hình ảnh có liên quanTS. NGUYỄN THỊ THU HÀ – Đại học Luật Hà Nội

1. Phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Thủ tục rút gọn (TTRG) là thủ tục TTDS được tòa án áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động có đủ các điều kiện do pháp luật quy định trong một thời hạn ngắn do một thẩm phán tiến hành với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng và đúng pháp luật. Do đó, nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án dân sự theo TTRG là: (i) áp dụng các quy định tại Chương XVIII để giải quyết vụ án theo TTRG; (ii) nếu Chương XVIII không có quy định thì áp dụng các quy định khác của Bộ luật TTDS để giải quyết. Ngoài ra, nếu các văn bản pháp luật khác quy định tranh chấp dân sự được giải quyết theo TTRG thì việc giải quyết tranh chấp đó được thực hiện theo TTRG quy định trong Bộ luật TTDS năm 2015.

2. Điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Loại việc được tòa án áp dụng để giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn là những tranh chấp dân sự nhưng đó là các tranh chấp có tính chất đơn giản, rõ ràng về sự việc, áp dụng pháp luật và không có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015, các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

– Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;

– Các đương sự đều có địa chỉ cư trú, trụ sở rõ ràng;

 

– Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị tòa án giải quyết theo TTRG hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.

Đối với các vụ án mà pháp luật có quy định về các điều kiện khác nữa thì các vụ án được giải quyết theo TTRG cần phải đáp ứng cả các điều kiện này. Chẳng hạn, theo quy định khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, vụ án được giải quyết theo TTRG cần phải đáp ứng tiêu chí giá trị tranh chấp. Theo đó, điều kiện để giải quyết vụ án dân sự loại này là:

– Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;

– Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

– Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.

Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả của thủ tục tố tụng rút gọn, Bộ luật TTDS năm 2015 quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo TTRG, nếu xuất hiện tình tiết mới sau đây làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường:

– Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định;

– Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá;

– Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

– Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

– Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;

– Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường hợp cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Trong trường hợp chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.

3. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn tại tòa án cấp sơ thẩm

3.1 Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo TTRG

Bộ luật TTDS năm 2015 không có quy định riêng về khởi kiện vụ án dân sự và thụ lý vụ án dân sự theo TTRG. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 361 Bộ luật TTDS năm 2015, việc khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo TTRG được thực hiện như đối với vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, việc khởi kiện vụ án dân sự theo TTRG sẽ thực hiện theo quy định từ Điều 186 đến Điều 194 Bộ luật TTDS năm 2015. Việc thụ lý vụ án dân sự theo TTRG sẽ thực hiện theo quy định từ Điều 191 đến Điều 196 Bộ luật TTDS năm 2015.

3.2 Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG

Để tòa án, các bên đương sự chuẩn bị các điều kiện để tiến hành, tham gia xét xử vụ án theo TTRG thì việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG cũng phải thực hiện trong khoảng thời gian nhất định. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG là khoảng thời gian xác định từ thời điểm tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG. Do vụ án giải quyết theo TTRG có tính chất đơn giản, rõ ràng về sự việc, áp dụng pháp luật và không có yếu tố nước ngoài nên thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, thời hạn này vẫn phải đảm bảo cho tòa án, các đương s có đủ thời gian để tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc tòa án ra phán quyết chính xác và đúng pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật TTDS năm 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG là 01 tháng, kể từ ngày tòa án thụ lý vụ án.

Để bảo đảm phán quyết giải quyết vụ án theo TTRG nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tòa án cần xác định xem vụ án có đáp ứng đầy đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG hay không? Cụ thể:

– Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự rõ ràng không, bị đơn có thừa nhận nghĩa vụ không, nếu bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì sự thừa nhận của bị đơn có xuất phát từ ý chí tự nguyện không, có vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội không?

– Xác định, thẩm tra lại chứng cứ xem đã đầy đủ chưa, các đương sự có thống nhất về tài liệu chứng cứ của vụ án không, có cần tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ không?

– Xác định, thẩm tra lại địa chỉ, nơi cư trú, trụ sở của các đương sự có rõ ràng không?

– Xác định vụ án có yếu tố nước ngoài không, có cần phải thực hiện việc ủy thác tư pháp không? Nếu có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì xác định xem các đương sự có thỏa thuận về việc áp dụng TTRG không, có thỏa thuận về xử lý tài sản không?

– Xác định vụ án có cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?

– Xác định bị đơn hoặc người liên quan có đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không?

Như vậy, trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, nếu vụ án đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu vụ án có một trong các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 thì thẩm phán ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

Một vấn đề đặt ra là, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án theo TTRG, thẩm phán có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo TTRG không? Về vấn đề này, căn cứ khoản 2 Điều 361 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán có thể ra quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo TTRG theo quy định tại Điều 214 và Điều 217 Bộ luật TTDS năm 2015. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể vấn đề này để tránh kéo dài việc giải quyết vụ án.

3.3 Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG

Khi vụ án có đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 thì thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG.

Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG phải có các nội dung chính sau đây:

– Ngày, tháng, năm ra quyết định;

– Tên tòa án ra quyết định;

– Vụ án được đưa ra xét xử theo TTRG;

– Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của nguyên đơn, bị đơn hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

– Họ, tên thẩm phán, thư ký tòa án; họ, tên thẩm phán dự khuyết (nếu có);

– Họ, tên kiểm sát viên; họ, tên kiểm sát viên dự khuyết (nếu có);

– Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;

– Xét xử công khai hoặc xét xử kín;

– Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên tòa.

Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG phải được gửi ngay cho đương sự để đương sự thực hiện các quyền tố tụng của mình như quyền yêu cầu thay đổi thẩm phán, thư ký tòa án, kiểm sát viên, quyền khiếu nại quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và quyền tham gia phiên tòa. Quyết định này cũng được gửi ngay cho viện kiểm sát để viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chuẩn bị tham gia phiên tòa. Trường hợp viện kiểm sát tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật TTDS năm 2015 thì tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho viện kiểm sát cùng cấp và trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho tòa án.

Để chắc chắn rằng quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG là đúng đắn, đáp ứng đầy đủ các điều kiện về giải quyết vụ án theo TTRG, Điều 329 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, đương sự có quyền khiếu nại, viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với chánh án tòa án đã ra quyết định.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, chánh án tòa án phải ra một trong các quyết định sau đây:

– Giữ nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG nếu vụ án đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015;

– Hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu vụ án không đáp ứng đầy đủ các các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 hoặc xuất hiện một trong các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015.

Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của chánh án tòa án là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, viện kiểm sát cùng cấp.

3.4 Phiên tòa sơ thẩm theo TTRG

Về nguyên tắc, để các đương sự có thể bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như tòa án ra được một bản án, quyết định đúng đắn và chính xác thì tòa án phải mở một phiên tòa công khai với sự có mặt của tất cả những người tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, các đương sự, những người tham gia tố tụng khác được thực hiện quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của mình một cách trực tiếp và bằng lời nói. Các đương sự đều phải được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, đối với các vụ án được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn thì đây là vụ án đơn giản, rõ ràng, thẩm phán chỉ thẩm tra lại sự việc, chứng cứ, tài liệu và áp dụng pháp luật để giải quyết nên việc bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của các đương sự được thực hiện ở mức độ hạn chế hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, các đương sự, kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo TTRG. Trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Đương sự có quyền đề nghị tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.

Nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh chóng và linh hoạt của việc giải quyết các vụ án dân sự đơn giản, rõ ràng, khoản 3 Điều 320 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định thẩm phán tiến hành hòa giải trong phiên tòa sơ thẩm dân sự chứ không bắt buộc phải hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm giống như thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, sau khi khai mạc phiên tòa, thẩm phán tiến hành hòa giải, trừ trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật TTDS năm 2015. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 Bộ luật TTDS năm 2015. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì thẩm phán tiến hành xét xử.

Với mục đích bảo đảm cho các bên đương sự trình bày, giải thích hay đối chiếu xem có mâu thuẫn về tài liệu, chứng cứ không tại phiên tòa sơ thẩm, khoản 2, 3 Điều 320 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định, thủ tục khai mạc phiên tòa, trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được thực hiện như đối với vụ án giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, đối với vụ án đơn giản, rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ thì việc xét xử tại phiên tòa “thực chất là một phiên đối chất để kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứtrong hồ sơ, trước khi thẩm phán ra quyết định về vụ việc” [1]. Do đó, việc tranh luận, đối đáp cần thực hiện đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.

Ngoài ra, trường hợp tại phiên tòa phát sinh tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015, mà tình tiết mới đó làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì thẩm phán xem xét, ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

3.5 Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm theo TTRG

Để phù hợp với nguyên tắc quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”, Điều 17 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được áp dụng cho tất cả các vụ việc dân sự mà không có bất kỳ một ngoại lệ nào nhằm bảo đảm quyền của các đương sự cũng như đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp trong các phán quyết của tòa án trước khi đưa ra thi hành. Do vậy, Điều 321 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án theo TTRG có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm rút gọn.

Bản án, quyết định theo TTRG đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án hoặc khi phát hiện tình tiết mới theo quy định của Bộ luật TTDS năm 2015.

4. Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn tại tòa án cấp phúc thẩm

4.1 Kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định theo TTRG

Theo quy định tại khoản 2 Điều 316 Bộ luật TTDS năm 2015, việc kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định theo TTRG được thực hiện như đối với thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, linh hoạt của việc giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Cụ thể, thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết; thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG của viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định.

4.2 Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG

– Thụ lý xét xử phúc thẩm theo TTRG

Theo quy định tại khoản 2 Điều 316 Bộ luật TTDS năm 2015, việc thụ lý xét xử phúc thẩm theo TTRG được thực hiện như đối với thủ tục thông thường. Theo đó, ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tòa án cấp phúc thẩm sẽ vào sổ thụ lý vụ án. Để bảo đảm cho đương sự chuẩn bị phương án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và tham gia phiên tòa cũng như để bảo đảm cho viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và thông báo trên cổng thông tin điện tử của tòa án (nếu có). Chánh án tòa án cấp phúc thẩm phân công thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn.

– Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG:

Nhằm bảo đảm đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, hiệu quả của việc giải quyết vụ án theo TTRG, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục thông thường. Cụ thể, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG là 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án (khoản 1 Điều 323 Bộ luật TTDS năm 2015); thời hạn chuẩn bị mở phiên tòa phúc thẩm theo TTRG là 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (khoản 1 Điều 324 Bộ luật TTDS năm 2015).

– Nghiên cứu hồ sơ vụ án:

Để chuẩn bị xét xử, thẩm phán phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị, đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị và các chứng cứ, tài liệu kèm theo. Cụ thể, thẩm phán phải kiểm tra lại những vấn đề như nội dung của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; thủ tục tố tụng mà tòa án cấp sơ thẩm tiến hành có đúng không, vụ án có đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG hay không, có xuất hiện các tình tiết mới để chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường không, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm có hợp pháp và có căn cứ không? Trường hợp thiếu chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn thì yêu cầu đương sự bổ sung. Tuy nhiên, việc bổ sung, chứng cứ mới ở phúc thẩm phải đáp ứng các điều kiện theo quy định Điều 287 Bộ luật TTDS năm 2015.

– Ra các quyết định trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:

Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:

+ Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định tại Điều 288 Bộ luật TTDS năm 2015. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn.

+ Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định Điều 289 Bộ luật TTDS năm 2015;

+ Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm có nội dung quy định tại khoản 1 Điều 290 Bộ luật TTDS năm 2015. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi ngay cho những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị để những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị thực hiện các quyền tố tụng của mình. Quyết định này cũng được gửi ngay cho viện kiểm sát cùng cấp để chuẩn bị tham gia phiên tòa và thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.

+ Quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu xuất hiện tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS năm 2015 chưa quy định việc chuyển vụ án sang thủ tục thông thường là thủ tục sơ thẩm hay thủ tục phúc thẩm.

Chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu:

Ngay khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì tòa án chuyển ngay quyết định này và hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của viện kiểm sát cùng cấp là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn đó, viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho tòa án.

4.3 Phiên tòa phúc thẩm theo TTRG

Tương tự như ở phiên tòa sơ thẩm theo TTRG, phiên tòa phúc thẩm theo TTRG cũng được tiến hành theo một trình tự đơn giản, nhanh chóng hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Theo đó, các đương sự, kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đương sự có quyền đề nghị tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp đương sự không kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.

Về thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm cũng được tiến hành đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, cụ thể:

– Thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).

– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày, đương sự bổ sung ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án.

– Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, kiểm sát viên phát biểu ý kiến của viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm.

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.

4.4 Quyền hạn của thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn

Theo quy định tại khoản 6 Điều 324 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán khi giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn có các quyền hạn sau đây:

– Giữ nguyên bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm

Thẩm phán không chấp nhận kháng cáo hoặc kháng nghị trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ và toà án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng.

– Sửa bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm

Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, thẩm phán thấy toà án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án theo TTRG không đúng pháp luật thì thẩm phán có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm. Theo quy định của khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 309 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm nếu toà án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong những trường hợp sau đây:

+ Việc chứng minh và xác định chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật;

+ Việc chứng minh và xác định chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên toà phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.

Với những chứng cứ được xem xét ở giai đoạn sơ thẩm và chứng cứ được bổ sung ở phúc thẩm thì thẩm phán nhận thấy tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định không đúng pháp luật. Nói cách khác, tòa án cấp sơ thẩm đã có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết vụ án. Đây là các sai lầm trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung để áp dụng như không áp dụng điều luật trong trường hợp cần áp dụng, áp dụng văn bản pháp luật đã hết hiệu lực hoặc áp dụng không đúng các điều luật, không đúng nội dung quy định của điều luật (ví dụ: tòa án sơ thẩm quyết định mức bồi thường không tương xứng với mức độ thiệt hại xảy ra…).

– Hủy bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩmđể giải quyết lại vụ án theo TTRG hoặc theo thủ tục thông thường nếu không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG

Theo quy định tại khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 310 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán hủy bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo TTRG trong các trường hợp sau đây:

– Việc chứng minh và xác định chứng cứ không theo đúng quy định của pháp luật hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được;

– Thẩm phán thuộc một trong các trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại Điều 52, 53 Bộ luật TTDS năm 2015 hoặc có vi nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây là những vi phạm khác về thủ tục tố tụng phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn những vi phạm về thủ tục tố tụng không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, bản án sơ thẩm của tòa án đã giải quyết đúng về nội dung thì không coi là căn cứ để thẩm phán hủy bản án, quyết định và xét xử lại như vi phạm về thời hạn xét xử…

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 6 Điều 324 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán hủy bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục thông thường nếu vụ án không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG.

– Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án

Theo quy định tại khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 311 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 217, điểm b khoản 1 Điều 299 Bộ luật TTDS năm 2015.

– Đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 316, khoản 6 Điều 324 và Điều 312 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm phán đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm nếu vụ án có một trong các căn cứ quy định tại Điều 312 Bộ luật TTDS năm 2015.

Các bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra bản án, quyết định./.

Chú thích:

[1] « Vấn đề xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay – Thực trạng và giải pháp », Đề tài khoa học cấp Bộ (Trần Anh Tuấn – Chủ nhiệm đề tài), 2014, Hà Nội, tr. 113.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: www.nclp.org.vn


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191