Bài viết này là Phần 5 và cũng là phần cuối cùng trong Chuyên đề Tổng hợp các vấn đề về Luật Hiến Pháp – Ôn thi môn Hiến pháp. Bài có các nội dung chính là những phân tích, trao đổi về một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
Để nghiên cứu kỹ hơn, các bạn vui lòng truy cập theo danh sách đường link sau:
- Tổng hợp các vấn đề về Luật Hiến Pháp – Ôn thi (Phần 1) – Đối tượng điều chỉnh, nghiên cứu của ngành Luật Hiến pháp
- Tổng hợp các vấn đề về Luật Hiến Pháp – Ôn thi (Phần 2) – Bản chất Nhà nước theo hiến pháp hiện hành
- Tổng hợp các vấn đề về Luật Hiến Pháp – Ôn thi (Phần 3) – So sánh các bản Hiến pháp Việt Nam
- Tổng hợp các vấn đề về Luật Hiến Pháp – Ôn thi (Phần 4) – Phân tích một số quyền công dân tiêu biểu
- Tổng hợp các vấn đề về Luật Hiến Pháp – Ôn thi (Phần 5) – Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013
Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi là Hiến pháp 2013), tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện, hội nhập và phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Với 11 chương, 120 điều (gồm 12 điều mới, 101 điều sửa đổi, bổ sung và 7 điều giữ nguyên), bản Hiến pháp vừa được thông qua có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Bài viết sau đây xin được giới thiệu những điểm mới cơ bản của Hiến pháp 2013:
1. Về chế độ chính trị
Chương I của Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp 1992, bên cạnh đó, đã làm rõ hơn một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp bổ sung thêm một điểm quan trọng là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ”(Khoản 2, Điều 2) cùng với việc tiếp tục thể hiện nhất quán, xuyên suốt quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong Hiến pháp bằng quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt trong các chương quy định về tổ chức bộ máy nhà nước tại Hiến pháp 2013. Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền, việc ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân Nhân dân, vì Nhân dân.
Thứ ba, quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” (Điều 6) được ghi nhận thành nguyên tắc trong Hiến pháp, đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp 2013 so với các bản Hiến pháp trước đây. Theo đó, nhân dân được thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước mà không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như theo Hiến pháp năm 1992.
Thứ tư, Hiến pháp 2013 làm sâu sắc hơn tính tiên phong, bản chất giai cấp công nhân và nhân dân của Đảng, đồng thời bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm chính trị – pháp lý của Đảng đối với Nhân dân, theo đó, Đảng phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” (Khoản 2, Điều 4).
2. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được sửa đổi, bổ sung, bố cục lại từ Chương V của Hiến pháp 1992 và được đặt tại Chương II, ngay sau Chương I về Chế độ chính trị, khẳng định vai trò quan trọng của chế định này, thể hiện sự chuyển biến tích cực về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp.
Hiến pháp 2013 đã thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên với những điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, việc Hiến pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” là một bước tiến bộ vì Hiến pháp năm 1992 chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân. Các chương về Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đều có quy định Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, Hiến pháp 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14).
Thứ hai, Hiến pháp 2013 ghi nhận một số quyền con người chưa được đề cập trong Hiến pháp năm 1992 như quyền sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác (Khoản 3, Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình (Khoản 1, Điều 21); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa (Điều 41); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43);… Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 cũng bổ sung quy định về một số quyền công dân như: quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền xác định dân tộc (Điều 42);…
Những bổ sung này thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp 2013 cũng quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành luật hoặc pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện tốt các quyền của mình.
3. Về chế độ kinh tế
Hiến pháp 2013 đã làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc quản lý và sử dụng đất đai, đồng thời thể chế hóa quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về tính chất và mô hình của nền kinh tế, Hiến pháp 2013 quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50). Ngoài việc tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp 1992, quy định tại Điều 50 Hiến pháp 2013 đã thể hiện được bản chất cũng như động lực và mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm sự gắn kết hài hòa và chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội.
Thứ hai, về các thành phần kinh tế, kế thừa tinh thần của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 quy định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 không nêu cụ thể các thành phần kinh tế như Hiến pháp năm 1992; tên gọi, đặc điểm và vai trò của từng thành phần kinh tế sẽ được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Hiến pháp 2013 chỉ quy định những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc đó là “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”.
Thứ ba, về quản lý và sử dụng đất đai, là tài nguyên đặc biệt của quốc gia và nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước đã được xác định từ bản Hiến pháp 1980. Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định “quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (Khoản 2, Điều 54), thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền sử dụng đất của công dân, là cơ sở hiến định để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai.
Hiến pháp 2013 cũng quy định Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Để tránh việc thu hồi đất tùy tiện, Hiến pháp 2013 quy định chỉ thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng; bên cạnh đó, việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. Hiến pháp 2013 cũng bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất phù hợp với Điều 32, đồng thời là cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật Đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan.
Thứ tư, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một điều khoản quy định về tài chính công: “Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật…” (Khoản 1, Điều 55). Hiến pháp 2013 cũng bổ sung quy định “Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia” nhằm tạo cơ sở hiến định cho luật chuyên ngành quy định cụ thể các công cụ, giải pháp để Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ.
4. Về Quốc hội
Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 83 Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp 2013 đã sửa đổi quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội quyết định “mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” (Khoản 3, Điều 70). Quy định như vậy rõ ràng, khả thi, phù hợp hơn với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất nước và xác định rõ hơn quyền quyết định của Quốc hội với quyền quản lý, điều hành của Chính phủ.
Thứ hai, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội “quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia”, đồng thời bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc “quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ” (Khoản 4, Điều 70).
Thứ ba, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7, Điều 70).
Thứ tư, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, 6, 7, 9, Điều 70).
Thứ năm, bổ sung quy định về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Khoản 8, Điều 70).
Thứ sáu, sửa đổi quy định về thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế, theo đó, Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của các điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội (Khoản 14, Điều 70).
Thứ bảy, quy định trong Hiến pháp thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định (Điều 78) được quy định tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật Tổ chức Quốc hội.
Ngoài ra, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một số thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với vị trí là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội như thẩm quyền trong việc quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Khoản 8, Điều 74); thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy bản của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (Khoản 6, Điều 74); thầm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Khoản 12, Điều 74).
5. Về Chính phủ
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, khẳng định vị trí của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước, bảo đảm tính độc lập tương đối của Chính phủ, tạo cơ sở phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong hoạch định, điều hành chính sách quốc gia và tổ chức thực thi pháp luật. Có thể nêu một số điểm mới cơ bản trong các quy định về Chính phủ như sau:
Một là, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung và sắp xếp lại nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ trên cơ sở kế thừa các quy định tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 đã bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 96 (Khoản 2, Điều 96).
Ngoài ra, Hiến pháp 2013 cũng phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại Khoản 14 Điều 70 (Khoản 7, Điều 96).
Thứ hai, Hiến pháp 2013 đã điều chỉnh và cơ cấu lại quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ để làm rõ hơn thẩm quyền định hướng, điều hành hoạt động của Chính phủ; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, tổ chức thực hiện điều ước quốc tế và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Khoản 5, Điều 98).
Thứ ba, để làm rõ trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hiến pháp 2013 quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành và lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (Khoản 4, Điều 95).
Ngoài ra, nhằm tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hiến pháp bổ sung quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ” (Khoản 2, Điều 99).
6. Về Tòa án nhân dân
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Khoản 1, Điều 102), đồng thời sửa đổi quy định về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, theo đó, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Khoản 3, Điều 102).
Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 không xác định cụ thể các cấp Tòa án như Hiến pháp 1992 mà để Luật quy định. Về nguyên tắc hoạt động của Tòa án, theo yêu cầu cải cách tư pháp, Hiến pháp 2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Khoản 5, 6, Điều 103).
7. Về chính quyền địa phương
Nhằm đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp 2013 đã quy định một cách khái quát và nguyên tắc về mô hình chính quyền địa phương làm cơ sở Hiến định để Luật Tổ chức chính quyền địa phương sau này cụ thể hóa. Hiến pháp 2013 quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, cụ thể như sau:
Một là, về đơn vị hành chính, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định về đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương, theo đó, “nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” (Khoản 1, Điều 110).
Ngoài ra, Hiến pháp bổ sung quy định“Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” (Khoản 2, Điều 110).
Hai là, về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy định khái quát theo hướng việc tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành chính sẽ được quy định tại văn bản Luật; việc tổ chức chính quyền địa phương cần phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (Khoản 2, Điều 111).
Ba là, về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy định “chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên”, và “nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 1, 2, Điều 112).
8. Về Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước
Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên được thể chế hóa trong Hiến pháp với tư cách là các thiết chế hiến định và được quy định trong một chương riêng của Hiến pháp, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử dại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (Khoản 1, Điều 117). Kiểm toán Nhà nước hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Khoản 1, Điều 118).
Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 chỉ quy định khái quát về vị trí, chức năng còn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của các cơ quan này sẽ do luật định.
9. Về việc sửa đổi Hiến pháp
Hiến pháp 2013 đã cụ thể hóa quy định về thẩm quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp, thủ tục soạn thảo Hiến pháp và quy trình thông qua Hiến pháp. Theo Điều 120, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp,Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định.
Với những điểm mới được xác định, Bản Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua là một bước tiến quan trọng trong lịch sử lập hiến của đất nước. Không chỉ hướng tới mục tiêu đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập của đất nước, việc sửa đổi bổ sung bản Hiến pháp năm 1992 – được xây dựng trong thời kỳ đầu đổi mới đất nước, còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân cả nước, khắc phục được những hạn chế, bất cập của Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014.
Để có căn cứ pháp lý triển khai thi hành Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/1/2014 ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp nhằm bảo đảm các quy định của Hiến pháp thực sự đi vào đời sống, được tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành, tạo động lực thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tham khảo thêm:
- Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành
- Đánh giá tác động của quy định pháp luật về Ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường tới hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường (Lý luận và quy định pháp luật hiện hành)
- Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành
- Phương pháp nghiên cứu của khoa học Luật Hiến pháp Việt Nam
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.