Quản lý và thanh lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 – Thực trạng và triển vọng thực thi
Theo Luật Phá sản năm 2004, chủ thể được giao nhiệm vụ quản lý và thanh lý tài sản phá sản là Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản quy định về thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm có: (i) Một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; (ii) Một cán bộ của Toà án; (iii) Một đại diện chủ nợ; (iv) Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản; (v) Trường hợp cần thiết có đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện các cơ quan chuyên môn tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản,thì Thẩm phán xem xét, quyết định.
Nhiệm vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản là giám sát, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp từ khi có quyết định mở thủ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cho đến khi có quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án. Cụ thể là:
– Lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp;
– Giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp;
– Đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp cần thiết;
– Lập danh sách chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ; những người mắc nợ và số nợ phải đòi của doanh nghiệp;
– Thu hồi và quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán và con dấu của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý;
– Thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định của Thẩm phán;
– Phát hiện và đề nghị Thẩm phán ra quyết định thu hồi tài sản, giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp;
– Thi hành quyết định của Thẩm phán về việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh lý theo đúng quyết định pháp luật về bán đấu giá;
– Gửi các khoản tiền thu được từ những người mắc nọ và từ việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp vào tài khoản mở tại ngân hàng;
– Thi hành các quyết định khác của Thẩm phán trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản.
Sau gần 10 năm thực hiện Luật Phá sản năm 2004, thực tiễn quản lý, thanh lý tài sản phá sản của Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã bộc lộ các bất cập sau:
Thứ nhất, về thành phần của Tổ quản lý và thanh lý tài sản
Số lượng thành viên tham gia các tổ chức này (ít nhất có 5 người trở lên) đại diện cho nhiều chủ thể khác nhau đã gây ra nhiều bất cập trong hoạt động. Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật còn có chức năng giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong kinh doanh, thế nhưng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại diễn ra thường xuyên liên tục, không theo giờ hành chính. Do đó, nếu mỗi hoạt động của doanh nghiệp phải chờ sự giám sát, quản lý xong mới được tiến hành là không phù hợp và đáp ứng được với thực tế kinh doanh.
Thứ hai, tài sản của doanh nghiệp là một khối thống nhất
Yêu cầu đặt ra là cần phải quản lý chúng một cách chặt chẽ và thực hiện những biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để phân chia tài sản đó thoả đáng. Trong Luật Phá sản năm 2004, chức năng quản lý tài sản thuộc về một tập thể với thành viên đến từ các cơ quan khác nhau. Cách thiết kế đó đã phát sinh nhiều hệ quả phức tạp, như sự không thống nhất giữa thành viên trong việc đánh giá, kết luận về tài sản cũng như các biện pháp liên quan đến tài sản của doanh nghiệp và do đó, kéo dài việc giải quyết mà gây không ít trở ngại cho sự quản lý. Đáng lưu ý là trong hệ thống làm việc theo tổ có thể gây ra sự chậm trễ trong quá trình tố tụng và kèm theo đó là hiệu quả thấp.
Thứ ba, hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của của Tổ quản lý, thanh lý tài sản thiếu tính chuyên nghiệp
Thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản là những người thực hiện nhiệm vụ kiêm nhiệm, công việc kiêm nhiệm này không phải là chuyên môn, nghiệp vụ chính của thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản, do đó khi xử lý công việc cụ thể tại doanh nghiệp thường hay lúng túng, bị động. Trong quá trình soạn thảo Luật Phá sản năm 2014, có ý kiến cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng tách Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành hai tổ (Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản). Cũng có ý kiến khác cho rằng, cần xã hội hoá việc quản lý tài sản phá sản bằng việc có quy định cơ chế để Luật sư hay Quản tài viên thay cho Chấp hành viên làm Tổ quản lý, thanh lý tài sản; ngoài đại diện của chủ nợ và của doanh nghiệp…bị phá sản, các thành viên khác của Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Luật sư lựa chọn, hoạt động dưới sự giám sát của Toà án (trực tiếp là Thẩm phán phụ trách).
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, cần có một cơ quan chuyên trách để thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản có tính chuyên nghiệp hơn và việc giải quyết phá sản cũng được nhanh chóng thuận tiện hơn, vì Chấp hành viên là người không đủ điều kiện, cơ sở để xác định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lại làm Tổ quản lý, thanh lý tài sản là không phù hợp.
Thứ tư, có sự mâu thuẫn giữa các văn bản hướng dẫn về việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Điều 9 của Luật Phá sản năm 2004 quy định đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại Mục 5.1 Chương I Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP đã không hướng dẫn cụ thể thời hạn cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Còn tại Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn khi quyết định mở thủ tục phá sản thì Thẩm phán chỉ gửi văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản, do vậy, quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ phải ban hành sau. Hướng dẫn như vậy là mâu thuẫn với quy định của Luật Phá sản năm 2004.
Khắc phục những mâu thuẫn trên, nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản phá sản trong Luật Phá sản năm 2014 được trao chủ thể hoạt động chuyên nghiệp với hai loại hình hành nghề là quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Dĩ nhiên, điều kiện hành nghề của mỗi loại cũng được pháp luật quy định khác nhau.
Theo khoản 2 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014, điều kiện hành nghề của quản tài viên được quy định như sau:
“a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan;
c) Có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên”.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định chi tiết những đối tượng sau đây không được phép hành nghề quản lý, thanh lý tài sản:
– Cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
– Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; người đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
– Người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. (Điều 14, Luật Phá sản năm 2014)
Để được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên, người xin cấp chứng chỉ phải là: (i) Luật sư; (ii) Kiểm toán viên; (iii) Người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo (khoản 1 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014). Quản lý Nhà nước đối với Quản tài viên và việc cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên sẽ được thực hiện theo các quy định của Chính phủ (khoản 3 Điều 12 của Luật Phá sản năm 2014).
Để bảo vệ lợi ích của công chúng, loại hình doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 chỉ là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Đây là một trong số ít các đạo luật ở nước ta nhìn nhận chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh là một trong những biện pháp ngăn ngừa rủi ro cho công chúng từ phía chủ doanh nghiệp.
Trên tinh thần đó, theo khoản 2 Điều 13 của Luật Phá sản năm 2014, điều kiện để doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản được quy định như sau:
“a) Công ty hợp danh có tối thiểu hai thành viên hợp danh là Quản tài viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của công ty hợp danh là Quản tài viên;
b) Doanh nghiệp tư nhân có chủ doanh nghiệp là Quản tài viên, đồng thời là Giám đốc”.
Quản lý Nhà nước đối với Quản tài viên và việc cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên, điều kiện hành nghề đối với doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản sẽ được thực hiện theo các quy định của Chính phủ (khoản 3 Điều 12; khoản 3 Điều 13 của Luật Phá sản năm 2014).
Luật Phá sản năm 2014 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, vậy từ thời điểm Luật có hiệu lực, Quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản hoạt động theo cơ chế nào vẫn còn là một dấu hỏi. Ở một số nước áp dụng cơ chế cấp phép, một số nước áp dụng cơ chế đăng ký. Rõ ràng ở cơ chế nào cũng có hiệu quả, vấn đề là với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam thì áp dụng cơ chế nào? Cơ chế cấp phép ở một số nước đã chứng tỏ được nhiều ưu thế, như có một đầu mối duy nhất quản lý quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; thuận lợi trong việc phối hợp quản lý quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; có xu hướng năng động và liên tục trong việc nâng cao chuẩn mực nghề nghiệp của quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
Tuy nhiên với cơ chế này phải mất một thời gian nhất định, thậm chí kéo dài vài năm, trong khi chỉ vài tháng nữa Luật Phá sản có hiệu lực mà chưa có văn bản quy định rõ ràng vấn đề này thì quy định của Luật sẽ thành “quy định treo” mà không thể thực hiện được. Ở một số nước như Nga, Ba Lan, Rumani, Tuynidi… đã có cơ chế quản lý đội ngũ cán bộ xử lý phá sản, tuy nhiên, sự tồn tại của cơ quan quản lý, cấp phép chuyên trách chỉ là ngoại lệ chứ không phải quy định bắt buộc[1].
Ở Việt Nam, vai trò của Tòa án trong Luật Phá sản được thể hiện rõ nét, chính điều này đã “ngầm ủng hộ” mô hình đăng ký quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Bởi khi Thẩm phán là người ra quyết định trong vụ việc phá sản thì quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản sẽ không còn toàn quyền hành động, vì thế yêu cầu cấp phép, quản lý đầy đủ với quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản cũng sẽ giảm.
Trong trường hợp Việt Nam lựa chọn cơ chế đăng ký quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thì việc đăng ký thì cần phải có các tiêu chuẩn cho việc đăng ký, quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản ngoài việc có kiến thức chung về pháp luật, kinh doanh, tài chính, kế toán, cần thiết phải có kinh nghiệm, có kỹ năng chuyên môn để xác định doanh nghiệp có còn đủ khả năng tồn tại, tái cơ cấu và giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình tái cơ cấu.
Trong trường hợp lựa chọn cơ chế cấp phép sẽ gặp khó khăn trong giai đoạn đầu, vì cần phải có ngay một đội ngũ quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thực hiện nhiệm vụ sau khi Luật Phá sản có hiệu lực. Trong trường hợp này, cần có một số “đặc cách” hay gọi khác là thực hiện “miễn trừ”. Việc cấp phép được thực hiện dựa trên một số tiêu chí nhất định về trình độ, năng lực và kinh nghiệm, giống với cơ chế đăng ký. Sau thời gian này, sẽ tiến hành cơ chế cấp phép với những tiêu chí khắt khe hơn để tuyển chọn được những quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thực sự đủ năng lực. Một trong các tiêu chí khắt khe của cơ chế cấp phép đó là phải trải qua đào tạo và thi sát hạch.
Tuy nhiên, nếu lựa chọn cơ chế cấp phép thì cần phải xác định cơ quan quản lý, có thể giao cho một số tổ chức tư nhân hoạt động theo mô hình tự điều tiết, hoặc giao cho một cơ quan nhà nước ở Trung ương như Bộ Tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Tòa án nhân dân hay Viện kiểm sát nhân dân. Đối với Việt Nam, một nước chưa nhiều kinh nghiệm về các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp tự quản, nên nếu giao cho các tổ chức này thì khó có thể thực hiện tốt vai trò cơ quan quản lý
Để thực hiện được nhiệm vụ quản lý, tài sản phá sản, quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được trao các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, gồm:
a) Xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.Trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng điều hành, doanh nghiệp, hợp tác xã có dấu hiệu vi phạm khoản 1 Điều 48 của Luật Phá sản năm 2014 thì Thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
b) Lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã vắng mặt thì người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản.
Trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều này là không chính xác thì Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê.
Trường hợp đại diện doanh nghiệp, hợp tác xã và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài sản hoặc cố tình làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
c) Bảo quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản: Các biện pháp bảo toàn tài sản được quy định trong Luật phá sản 2014 bao gồm: (i) Tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 60); (ii) Tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện Hợp đồng đang có hiệu lực (Điều 61); (iii) Bù trừ nghĩa vụ (Điều 63); (iv) Gửi giấy đòi nợ (Điều 66); (v) Lập danh sách chủ nợ (Điều 67); (vi) Lập danh sách người mắc nợ (Điều 68);(vii) Đăng ký giao dịch bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; (viii) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 70)
d) Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của pháp luật: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện các hoạt động: (i) Liên quan đến việc vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản; bán, chuyển đổi cổ phần; chuyển quyền sở hữu tài sản; (ii) Chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực; (iii) Thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản; trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
Hình thức báo cáo gồm báo cáo trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, thư điện tử, fax, telex. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp, hợp tác xã thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm trả lời cho doanh nghiệp, hợp tác xã việc được thực hiện hoặc không được thực hiện các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này và phải chịu trách nhiệm về việc trả lời của mình. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải báo cáo Thẩm phán về nội dung trả lời của mình.
Các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện mà không có sự đồng ý của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì bị đình chỉ thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu và giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật.
đ) Được thuê cá nhân, tổ chức thực hiện công việc theo quy định của pháp luật;
e) Đề xuất với Thẩm phán về việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản;
g) Bán tài sản theo quyết định của Thẩm phán để bảo đảm chi phí phá sản;
h) Tổ chức việc định giá, thanh lý tài sản theo quy định của Luật này; báo cáo cơ quan thi hành án dân sự, thông báo đến người tham gia thủ tục phá sản có liên quan về việc giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện thanh lý tài sản;
i) Gửi các khoản tiền thu được vào tài khoản do Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền mở tại ngân hàng.
2. Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật.
3. Báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
4. Đề nghị Thẩm phán tiến hành các công việc sau:
a) Thu thập tài liệu, chứng cứ;
b) Tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp;
c) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp dụng biện pháp xử phạt hành chính; chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.
5. Được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.
6. Báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo yêu cầu của Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự; chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình” (Điều 16 Luật Phá sản năm 2014).
Có thể khẳng định rằng, các nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên/ doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã tiến gần đến với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về quản tài viên tư pháp trong phá sản. Tuy nhiên, khi so sánh với các chuẩn mực của OECD về nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên như đã trình bày ở phần trên cũng đã bộc lộ một số vấn đề đáng chú ý sau:
Một là, nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên theo khuyến nghị của OECD rộng hơn khi thực hiện nhiệm vụ bảo toàn tài sản. Cụ thể, quản tài viên được “thực hiện tất cả các bước cần thiết để bảo vệ và bảo quản tài sản của doanh nghiệp phá sản và hoạt động kinh doanh của con nợ, kể cả ngăn chặn việc bán tài sản trái phép và thực hiện quyền tránh các giao dịch trái phép trước khi phá sản (avoidance powers)”. Theo đó, quản tài viên phải được trao quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn các giao dịch trái pháp luật hoặc chuyển giao tài sản trái phép.
Hai là,từ thực tiễn hoạt động của quản tài viên ở các quốc gia OECD cũng đã cho thấy cần phải quy định rõ ràng các biện pháp pháp lý để thực thi nhiệm vụ bảo quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp khi bán, thanh lý tài sản như được thể hiện trong điểm c, khoản 1, Điều 16 Luật Phá sản năm 2014;
Ba là, so với khuyến nghị của OECD, quản tài viên/ doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản năm 2014 có vai trò khá hạn chế trong quá trình tái tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Theo đó, quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chưa được trao một quyền hạn quan trọng: “Tiếp tục vận hành và quản lý hoạt động kinh doanh trong trường hợp tái tổ chức và trong trường hợp thanh lý nếu doanh nghiệp được bán nhưng vẫn tồn tại mà không bị giải thể” và “Trong trường hợp tái tổ chức, chuẩn bị và hỗ trợ chuẩn bị kế hoạch tái tổ chức hoặc báo cáo về lý do tại sao không thể thực hiện tái tổ chức (trong khi chức năng này do đại diện quản lý phá sản thực hiện)”;
Bốn là, quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản năm 2014 chỉ thực hiện việc đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật. Trong khi đó, theo khuyến nghị của OECD, ngay lập tức sau khi được chỉ định, quản tài viên có tư cách đại diện cho tài sản của doanh nghiệp phá sản.
Có thể khẳng định rằng, những nhà lập pháp về phá sản của Việt Nam đã quá “thận trọng”theo thói quen hoặc tồn tại “những nghi ngại” về khả năng vận hành của chế định quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản năm 2014. Tuy nhiên, chắc chắn rằng việc trao thẩm quyền không đầy đủ cho quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ hạn chế hiệu quả hoạt động của loại hình chủ thể này ở Việt Nam trong thời gian tới./.
ThS. Trần Duy Tuấn
Sở Công Thương tỉnh Ninh Bình
[1] Nguyễn Thanh Bình (2014), Luật Phá sản với quy định về quản tài viên, http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=6052.
Tham khảo thêm:
- Lào Cai với công tác chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án dân sự trọng điểm phức tạp, kéo dài
- Một số nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014
- Mối quan hệ giữa một số chủ thể tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
- Nhìn lại một năm triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và định hướng cơ bản năm 2015
- Bàn về một số quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
- Bất cập trong thực hiện tuyển dụng không qua thi tuyển đối với công chức, viên chức
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong lĩnh vực dân sự
- Ưu tiên thanh toán trong thi hành án dân sự – Chỉ được thực hiện khi đủ điều kiện
- Quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay
- Đại diện thương lượng phía tập thể lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.
Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN