Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phải là hình phạt mà là nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản của người bị thiệt hại. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ( BTTH ) được Bộ luật Dân sự 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân được quy định tại Điều 606 Bộ luật Dân sự ( BLDS ), năng lực này được xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, BLDS quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân.
Để đi nghiên cứu vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng, ta sẽ đi vào từng vấn đề: khái niệm Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng; phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; năng lực chịu trách nhiệm BTTH.
I.Cơ sở lý luận:
Dựa theo Giáo trình luật Dân sự Việt Nam 2, ta có những nội dung cụ thể về lý luận sau.
1) Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Bồi thường thiệt hại trước hết là một trách nhiệm dân sự và là việc người gây thiệt hại dùng tài sản để bù đắp lại những tổn thất cho sức khoẻ, tính mạng, tinh thần, tài sản của người bị thiệt hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Hiểu một cách thực tế, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH).
2) Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy đủ. BLDS không quy định cụ thể các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm. Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các điều kiện sau :
a) Có thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt vấn đề bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Trong trách nhiệm hình sự đối với một số tội có cấu thành hình thức thì không đòi hỏi có hậu quả vật chất. Ngay đối với một số tội có cấu thành vật chất thì trong một số trường hợp cá biệt hậu quả chưa xảy ra nhưng do tính chất của hành vi nguy hiểm có khả năng gây ra hậu quả lớn cũng đã cấu thành tội phạm hoặc ngược lại đối với một số tội như tội thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vi phạm luật lệ giao thông thi phải có thiệt hại nghiêm trọng mới cấu thành tội phạm. Nhưng trong trách nhiệm dân sự chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải bồi thường vì vậy trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại.
+ Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại vật chất của người bị thiệt hại.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ;
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại;
+ Tổn thất về tinh thần
Đời sống tinh thần là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề và chỉ tồn tại đối với xã hội loài người như đau thương, mồ côi, sự xấu hổ,…. Về nguyên tắc, không thể giá trị được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị như trong trao đổi và không thể phục hồi được. Nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại về tinh thần, cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật. BLDS quy định người xâm hại phải : “bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của người đó phải gánh chịu”
b) Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật :
Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền tuyệt đối đó. Bởi vậy, Điều 604 BLDS quy định: “Người nào…xâm phạm đến…mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều luật này xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 10 BLDS “không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Việc “xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành xử vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các hành vi đó. Trong trường hợp này người gây thiệt hại không phải bồi thường, người gây thiệt hại không phải bồi thường trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc có sự đồng ý của người bị thiệt hại (khoản 1 Điều 613; Điều 614 BLDS). Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây ra thiệt hại vẫn phải bồi thường thiệt hại.
c) Có lỗi của người gây ra thiệt hại :
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Điều 604 BLDS quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý…mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường”. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xẩy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Nhưng lỗi trong trách nhiệm dân sự có những trường hợp là lỗi suy đoán. Bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán có lỗi, điều này được thể hiện ở khoản 3 Điều 606 BLDS : “Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”. Người bị thiệt hại trong nhiều trường hợp không thể chứng minh được, nếu buộc họ phải chứng minh sẽ bị bất lợi cho họ. Vì vậy, người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh.
Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình được coi là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Những người chưa có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của họ, thì họ không phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp trên cha, mẹ, người giám hộ, bệnh viện, trường học là những người theo quy định của pháp luật phải quản lý, chăm sóc, giáo dục… được suy đoán là đã có lỗi khi không thực hiện các nghĩa vụ nêu trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của họ.
Lỗi của pháp nhân, của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng… trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là lỗi của nhân viên các cơ quan này trong khi thực hiện nhiệm cụ được giao. Vì vậy, các cơ quan này phải bồi thường thiệt hại do thành viên của họ khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Lỗi trong trách nhiệm dân sự có những đặc điểm khác với lỗi trong trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự hình thức lỗi và mức độ lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định kẻ phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí người gây ra thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (khoản 3 Điều 623 BLDS).
Tuy nhiên, có trường hợp người gây ra thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường.
d) Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật :
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra, thể hiện ở Điều 604 BLDS. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại.
Lý thuyết về quan hệ nhân quả có nhiều quan điểm khác nhau trong giới luật học, nhưng tựu trung có thể có hai quan điểm chính trong giới luật gia tư bản cũng như XHCN.
Thứ nhất. Thuyết điều kiện cần thiết, theo đó nguyên nhân được coi là hành vi trái pháp luật đầu tiên làm nảy sinh những hậu quả tiếp sau và kết quả không thể xảy ra nếu không có hành vi ban đầu.
Thứ hai. Nguyên nhân phổ biến, theo đó trong những điều kiện thông thường hành vi có thể làm phát sinh hậu quả.
3) Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân :
Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước… Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân tại Điều 606 mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Bởi vậy, các chủ thể khác được coi là có năng lực chịu trách nhiệm BTTH. Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, BLDS quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân.
Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng bằng hành vi của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ” (Điều 19 BLDS) họ phải chịu trách nhiệm do hành vi bất hợp pháp của họ bằng tài sản của chính họ.
Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy đủ năng lực hành vi. Vì vậy, cha mẹ là người phải bồi thường thiệt hại do con em họ gây ra. Tuy nhiên, cách thức dùng tài sản để bồi thường được quy định đối với những người vị thành niên khác nhau. Đối với người dưới 15 tuổi, thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường; nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng, thì lấy tài sản của con để bồi thường. Đối với những người từ 15 đến dưới 18 tuổi, thì áp dụng ngược lại lấy tài sản của con để bồi thường, cha mẹ chịu trách nhiệm bổ sung phần còn thiếu.
Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý, thì trường học, bệnh viện phải bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà không có lỗi, thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường. “Thời gian quản lý” được hiểu là thời hạn trong đó các tổ chức theo quy định về nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục, chữa bệnh mà họ đã không thực hiện chức năng của họ, do lỗi họ quản lý không tốt nên người không có năng lực hành vi, người dưới 15 tuổi gây ra thiệt hại cho những người khác. Nếu cơ quan, tổ chức quản lý không có lỗi, thì cha, mẹ, người giám hộ phải bồi thường thiệt hại.
Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được cử đối với những người phải có giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLDS được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung. Tuy nhiên, nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong những trường hợp này sẽ không có người bồi thường thiệt hại bởi những người được giám hộ không có khả năng về năng lực hành vi để bồi thường, nếu họ có tài sản, có thể dùng tài sản của họ để bồi thường.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 67 BLDS người từ đủ 15 -18 tuổi không còn cha mẹ, cha mẹ mất năng lực hành vi không buộc phải có người giám hộ. Theo nguyên tắc chung người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi phải chịu trách nhiệm dân sự, do vậy nếu có hành vi gây thiệt hại thì lấy tài sản của họ để bồi thường.
4) Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng :
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng đắn.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. So với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau:
– Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Trách nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi phạm và/ hoặc BTTH.
– Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, BTTH theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên, như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải BTTH…
– Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH mà không được sự đồng ý của họ.
– Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với BTTH theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm BTTH thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận.
Việc phân biệt trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt hại đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc chứng minh thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
II.Một số vấn đề thực tiễn :
Nhìn chung các quy định về năng lực bồi thường thiệt hại trong hoạt động của mình đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, khẳng định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò quan trọng của quyền công dân, cá nhân, pháp nhân được pháp luật bảo vệ về sức khoẻ, tinh thần, tính mạng, danh dự, tài sản,… Nhưng vẫn cần có một số điểm khắc phục như sau để có thể áp dụng đối với mọi quan hệ bồi thường thiệt hại trong xã hội ngày càng phát triển như hiện nay.
1) Tại khoản 1 Điều 606 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân có quy định :
“ Ðiều 606. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
1.Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.”
Tuy nhiên trong điều kiện này, nhiều người tuy có đầy đủ năng lực hành vi nhưng khả năng về tài sản của họ trên thực tế không có, người 18 tuổi không có bất cứ khoản thu nhập nào, và trong thực tế xã hội hiện nay, những người đủ 18 tuổi vẫn còn đang theo học và sống chung cùng cha mẹ, họ không có điều kiện về tài sản để bồi thường thiệt hại nếu có. Trong trường hợp đó nếu có thiệt hại xảy ra thì cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ vẫn là người phải bồi thường thiệt hại. Vậy quy định tại khoản 1 này vẫn còn mang tính lý luận chưa bám sát được với thực tế xã hội.
2) Theo cơ sở lý luận thì năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân. Vậy một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng không có tài sản và không có khả năng tạo ra tài sản trong tương lai đủ để đáp ứng thiệt hại mình gây ra có thể gọi là một người không có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không, và nếu như vậy khi người này gây thiệt hại thì những người bị thiệt hại sẽ phải căn cứ vào đâu để được yêu cầu đền bù tổn thất cho mình. Theo tôi, nên có một điều luật trong Bộ luật Dân sự quy định về những người không có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và các biện pháp pháp luật đưa ra nhằm bảo vệ lợi ích của người bị thiệt hại trong những trường hợp này.
3) Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS :
“ 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
Người giám hộ nếu không muốn lấy tài sản của mình để bồi thường thì sẽ phải chứng minh mình không có lỗi trong việc giám hộ, nhưng vấn đề chứng minh này còn rất mơ hồ. Vì trong thực tế khái niệm lỗi rất lớn nó có thể là nguyên nhân và hậu quả của nhiều quá trình diễn ra liên tiếp, cũng có thể là trực tiếp, gián tiếp hay suy đoán, nên để kết luận hay chứng minh người giám hộ có lỗi hay không có lỗi là vô cùng khó khăn, và gần như tất cả các trường hợp trong thực tế, người giám hộ sẽ vẫn phải bồi thường dù cho sự việc xảy ra có như thế nào. Ví dụ, A là người giám hộ của B bị mất năng lực hành vi dân sự, A đặt làm một cái khoá lớn để khoá B trong một căn phong kín nhằm tránh những sự cố đáng tiếc xảy ra, nhưng thợ khoá đã làm không đúng kỹ thuật ăn bớt nhiên liệu nên chiếc khoá không thể đảm bảo an toàn, và khi đem về sử dụng B đã bằng cách nào đó bẻ được khoá và chạy ra ngoài gây thiệt hại về tài sản cho nhiều người, trong trường hợp này A sẽ vẫn bị suy đoán là có lỗi và phải đền bù hoàn toàn thiệt hại nếu B không có tài sản.
4) Theo quy định tại Điều 621 BLDS:
“ Ðiều 621. Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý:
1.Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2.Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3.Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Ðiều này, nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.”
Theo quy định trên, thì nhà trường, bệnh viện, tổ chức khác sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do những người mình quản lý gây ra trong thời gian những tổ chức này giám sát cá nhân đó. Nhưng đây chỉ là những quy định về mặt lý luận, trên thực tế khi có thiệt hại xảy ra các cơ quan này thường không đả động gì tới vấn đề bồi thường thiệt hại của mình.
Chẳng hạn như các sự kiện gần đây nhất là các vụ nữ sinh đánh nhau, hành hạ lẫn nhau, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhau một cách tồi tệ ngay trong thời gian nhà trường quản lý, thậm chí ngay trong lớp học như vụ clip có thời lượng hơn 5 phút, quay bằng điện thoại di động, cận cảnh 1 nữ sinh mặc đồng phục bị 3 nữ sinh khác hạ nhục bằng đủ kiểu ngay tại lớp học. Theo xác minh của nguồn tin Công an phường 11, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, vụ việc xảy ra vào ngày 19/11/2010, 3 nữ sinh đã tham gia hạ nhục bạn học được xác định là LTNN, VPH, LTM, nạn nhân là em TTTT. Tất cả các nữ sinh này cùng sinh năm 1997, cùng là học sinh lớp 8A5 trường THCS Mạch Kiếm Hùng, đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5.
Nhưng khi xử lý vụ việc này nhà trường lại chỉ quyết định thành lập hội đồng kỷ luật những học sinh trên chứ không nói gì đến việc chịu trách nhiệm của mình. Theo các thông tin từ các vụ việc tương tự đã được xử lý trước đây, thì cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh vẫn là người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con em mình gây ra. Đúng ra, trong những trường hợp này vì các em vẫn đang trong thời gian quản lý của nhà trường, và gây ra thiệt hại cho người khác thậm chí ở ngay trong lớp học, thì nhìn theo khía cạnh của pháp luật bồi thường thiệt hại hay khía cạnh xã hội, nhà trường mới chính là tổ chức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho những hành vi của các em gây ra, nhưng trên thực tế điều này lại không xảy ra. Vì vậy quy định tại Điều 621 này cũng còn mang nặng tính lý luận chưa thực sự áp dụng được trong thực tiễn xã hội hiện nay.
Bài tiểu luận: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
Danh mục tài liệu tham khảo:
- Giáo trình luật Dân sự Việt nam 2
- Bộ luật Dân sự 2005
- ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009_ TRẦN THỊ HUỆ
Tham khảo thêm:
- Các trường hợp không phải chịu trách nhiệm dân sự
- Những tội danh và thời hiệu truy cứu trách nhiệm Hình sự theo luật Hình sự 2017
- Bao giờ Thư ký thi hành án dân sự được hưởng phụ cấp trách nhiệm?
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người
- Đề 3 Hình sự 1 – Tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản – Các tội xâm phạm sở hữu
- Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.