Pháp luật về bảo hộ tên thương mại của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đang trong quá trình đàm pháp gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), thì nhận thức về sở hữu trí tuệ nói chung và về tên thương mại nói riêng của các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng ở nước ta ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong việc bảo hộ tên thương mại, thì vấn đề vi phạm tên thương mại còn xảy ra nhiều nơi trên đất nước ta, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Để góp phần hoàn thiện pháp luật về tên thương mại và giúp các doanh nghiệp bảo vệ tài sản trí tuệ của mình phù hợp với xu hướng chung của quốc tế, trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu pháp luật về tên thương mại của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1. Khái quát pháp luật về tên thương mại trên thế giới
Suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, tri thức luôn là một trong các yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Sự bùng nổ công nghệ thông tin và công nghệ kỹ thuật số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi mặt của đời sống xã hội hàng ngày khẳng định điều đó. Tuy nhiên, tài sản trí tuệ là tài sản vô hình, vì vậy, sự hình thành, chuyển dịch và chấm dứt cũng như bảo hộ các quyền phát sinh từ tài sản vô hình có những điểm khác biệt so với tài sản hữu hình. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ lâu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của các tác giả sáng tạo ra các đối tượng sở hữu công nghiệp, của các chủ sở hữu đối tượng đó mà còn là mối quan tâm lớn của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở những nơi, những khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển. Do đó, hầu hết các nước trên thế giới đều ban hành những quy định pháp luật riêng biệt để điều chỉnh các quan hệ liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp.
Ở đây, trước tiên cần đề cập tới việc bảo hộ tên thương mại với tư cách là đối tượng quyền sở hữu công nghiệp thông qua tìm hiểu những nét khái quát nhất của hệ thống pháp luật bảo hộ tên thương mại ở một số quốc gia, tìm hiểu tên thương mại theo Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp – Công ước quốc tế đa phương duy nhất đề cập trực tiếp tới vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại với số lượng thành viên tham gia là trên 150 quốc gia.
1.1. Pháp luật quốc tế về bảo hộ tên thương mại
Tên thương mại đã được nhắc đến trong Điều 2 (8) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ký ngày 14/7/1967: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh…”.
Bảo hộ tên thương mại theo Công ước Paris. Điều khoản về bảo hộ tên thương mại đã tồn tại ngay từ văn bản đầu tiên của Công ước Paris vào năm 1883. Hội nghị La hay năm 1952 đã sửa đổi nội dung của điều khoản cho phù hợp hơn với các điều khoản khác của công ước.
Theo Điều 8 Công ước Paris thì tên thương mại được bảo hộ tại tất cả các nước thành viên. Tuy nhiên, Công ước này không đưa ra quy định cụ thể về việc tên thương mại phải được bảo hộ dưới hình thức nào. Do vậy, chế độ pháp lý đối với tên thương mại tại các quốc gia khác nhau rất đa dạng. Tuy có những khác biệt nhất định nhưng ở tất cả các nước pháp luật về bảo hộ tên thương mại đều tập trung điều chỉnh các vấn đề: Những dấu hiệu nào có thể được sử dụng với tư cách là tên thương mại; trình tự xác lập quyền đối với tên thương mại; quyền và nghĩa vụ của người có tên thương mại; vấn đề bảo vệ và chấm dứt quyền đối với tên thương mại. Vấn đề xác định quyền đối với tên thương mại ở nước ngoài theo công ước có một số điểm đáng chú ý như sau:
Điều 8 Công ước Paris năm 1976 quy định: Tên thương mại được bảo hộ ở tất cả các nước thành viên của Liên hiệp mà không bị bắt buộc phải nộp đơn hoặc đăng ký, bất kể tên thương mại đó có hay không là một phần của một nhãn hiệu.
Theo nguyên tắc “chế độ quốc gia” được quy định tại Điều 2 Công ước thì tên thương mại của nước ngoài được bảo hộ như những tên thương mại của công dân nước sở tại[1].
Ngoài ra, việc bảo hộ tên thương mại ở nước ngoài còn phải đề cập đến trường hợp khi pháp luật quốc gia quy định các chế độ bảo hộ khác nhau cho tên thương mại có đăng ký và tên thương mại không đăng ký (ví dụ nhằm khuyến khích việc đăng ký) thì tên thương mại của người nước ngoài không đăng ký cũng chỉ được bảo hộ như tên thương mại không đăng ký của công dân nước sở tại.
Nếu như pháp luật ở nước thành viên của Công ước Paris coi dấu hiệu có khả năng làm cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn là một trong những điều kiện không được bảo hộ của tên thương mại, thì nước thành viên đó có thể đưa ra yêu cầu rằng tên thương mại nước ngoài được bảo hộ nếu như nó đã được sử dụng trên thực tế hoặc có được biết đến ở mức độ nhất định tại các nước là thành viên của Công ước Paris. Những quy định như vậy có trong pháp luật của Đức, Pháp, Áo, Thụy Sỹ và một loạt các nước khác[2]. Tuy nhiên, tại nhiều nước thì tên thương mại nước ngoài lại được bảo hộ không phụ thuộc vào việc nó đã được sử dụng hoặc được biết đến ở mức độ nhất định tại nước sở tại; sự kiện mang ý nghĩa quyết định ở đây lại là việc tên thương mại đó đã được bảo hộ ở một trong các nước thành viên của Công ước Paris. Ví dụ điển hình về thực tiễn trên là: Quyết định của Tòa án thành phố Trônkheim (Na Uy) giải quyết vụ việc một công ty mỹ phẩm Na Uy mang tên thương mại “ERR A/C” (đã được đăng ký tại thành phố nói trên vào năm 1945) kiện yêu cầu cấm công ty Thụy Điển “ERR A/C” sử dụng tên thương mại này cho một cửa hàng buôn bán nước hoa của công ty được mở tại Trônkheim vào năm 1967. Tòa án đã không thừa nhận đơn kiện của công ty Na Uy vì cho rằng, tại Thụy Sỹ, bị đơn mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên lãnh thổ Na Uy và mới đăng ký nhãn hiệu đó tại thành phố Oxlô (Na Uy) là không có ý nghĩa đối với việc công nhận sự bảo hộ tên thương mại trên tại Na Uy. Theo Điều 8 Công ước Paris, công ty Thụy Sỹ có quyền trước đối với tên thương mại nói trên.
1.2. Hệ thống pháp luật bảo hộ tên thương mại ở một số quốc gia trên thế giới
Ở các nước, pháp luật điều chỉnh tên thương mại thường dựa vào đạo luật riêng về bảo hộ tên thương mại hoặc các văn bản luật dân sự, luật thương mại, luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, luật về nhãn hiệu… hoặc được quy định bởi các án lệ tại các nước với hệ thống thông luật. Ví dụ: Thụy Điển là một trong số ít các nước có luật riêng về tên thương mại; Luật về nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ của Philippines (Phần 3 Bộ luật Sở hữu trí tuệ) có một điều riêng về tên thương mại và nhiều điều khoản áp dụng chung cho cả ba đối tượng, nhiều điều khoản về nhãn hiệu áp dụng tương tự cho tên thương mại; Luật Sở hữu công nghiệp (sở hữu trí tuệ) của các nước Tây Ban Nha, Mexico, các nước Mỹ La tinh, Srilanca có phần riêng về tên thương mại; tại Liên bang Nga, tên thương mại được bảo hộ trong khuôn khổ Bộ luật Dân sự, Luật về cạnh tranh và hạn chế độc quyền trên thị trường hàng hoá (Điều 10 Luật Liên bang Nga về cạnh tranh và hạn chế độc quyền trên thị trường hàng hoá), Luật Bảo vệ người tiêu dùng (Điều 9 Luật Liên bang Nga về bảo vệ người tiêu dùng)…
Việc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tên thương mại ở các nước cũng không đồng nhất. Sự khác biệt không chỉ tồn tại giữa các hệ thống pháp luật quốc gia về bảo hộ tên thương mại mà còn thể hiện cả ở trong hệ thống pháp luật của từng nước, nhất là các nước với hình thức cấu trúc liên bang. Ví dụ, tại Mỹ việc điều chỉnh các quan hệ này không thuộc thẩm quyền của chính quyền liên bang mà được xác định bởi pháp luật của từng bang[3].
Nguyên tắc lựa chọn tên thương mại: Pháp luật nhiều nước quy định hầu như bất cứ dấu hiệu nào cũng có thể được nhà kinh doanh lựa chọn làm tên thương mại cho mình. Nhà kinh doanh có thể thích dùng tên riêng của chính mình, nhưng cũng có thể tự lựa chọn một cái tên bất kỳ nào đó (không trái với pháp luật của nước mình) để làm tên thương mại. Nguyên tắc “tự do lựa chọn” này tồn tại ở Anh, Nhật, Mỹ và một loạt các nước có hệ thống pháp luật được xây dựng dưới ảnh hưởng của các quốc gia nêu trên. Tuy vậy, trong pháp luật về bảo hộ tên thương mại của các nước này cũng tồn tại một số hạn chế nhất định đối với việc lựa chọn tên thương mại. Chẳng hạn, hạn chế hoặc loại bỏ vệc sử dụng một số từ hay cụm từ riêng biệt (ví dụ, “hoàng gia”, “quốc tế”…) hoặc bắt buộc phải đưa vào thành phần tên thương mại những chỉ dẫn về tính chất, phạm vi trách nhiệm của chủ thể kinh doanh (ví dụ, “trách nhiệm hữu hạn”, “cổ phần”, “hợp danh”…).
Luật của hầu hết các nước trong hệ thống luật Châu Âu và những nước chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật này thì lại không cho phép chủ thể kinh doanh là cá nhân tự do lựa chọn tên thương mại, họ bắt buộc phải tiến hành công việc kinh doanh dưới tên riêng của chính mình, điều này có nghĩa là khi một cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh, thì họ phải sử dụng tên thật của mình làm tên thương mại mà không được lựa chọn một tên tự đặt bất kỳ nào khác. Chính bằng cách đó nên đã xuất hiện một số tên thương mại danh tiếng như SIMENS, ERICSSION… Những yêu cầu tương tự cũng được đưa ra đối với công ty hợp danh: Tên thương mại của các chủ thể này cần phải bao gồm tên thật của tất cả các thành viên sáng lập công ty hoặc tên thật của ít nhất một thành viên với việc bổ sung thêm từ “… và công ty (company)”, khi công ty được chuyển giao cho một chủ sở hữu mới thì tên thương mại cũ cũng phải được chuyển giao. Đối với những liên kết tư bản khác như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… thì những yêu cầu đối với tên thương mại như trên không được áp dụng. Nhưng tên thương mại của những công ty này nhất thiết phải nêu được phạm vi hoạt động và loại hình tổ chức. Nếu tên thương mại không phù hợp với bản chất thực của công ty sử dụng tên thương mại đó thì công ty có thể bị yêu cầu thay đổi tên thương mại của mình.
Nguyên tắc xác lập quyền đối với tên thương mại: Ở các nước khác trên thế giới, việc xác lập quyền đối với tên thương mại được hình thành trên những cơ sở pháp lý khác nhau như: Sử dụng tên thương mại (đa số các nước); Đăng ký bắt buộc (ở một số nước xã hội chủ nghĩa cũ như Liên bang Nga, khu vực Trung Mỹ…); Sử dụng hoặc đăng ký tên thương mại, trong đó hình thức đăng ký được khuyến khích (ở một số nước như Thuỵ Điển, Srilanca, Tây Ban Nha)[4].
Như vậy, việc đăng ký tên thương mại có thể mang ý nghĩa làm phát sinh quyền nhưng cũng có thể chỉ mang ý nghĩa chứng thực quyền (tương tự như đối với nhãn hiệu hàng hóa). Cụ thể, quyền đối với tên thương mại xuất hiện từ sự kiện sử dụng tên thương mại, còn việc đăng ký tên thương mại sau đó chỉ có ý nghĩa củng cố thêm quyền đã xuất hiện từ trước mà không phải là bắt buộc. Ví dụ, tại Achentina quyền đối với tên thương mại được xác lâp trên cơ sở sự kiện sử dụng chứ không phải sự kiện đăng ký tên thương mại; trong một vụ việc được xem xét tại tòa thượng thẩm sự kiện bắt đầu sử dụng tên thương mại được xem như tình tiết là cơ sở cho việctừ chối một người khác đăng ký nhãn hiệu hàng hóa trùng với tên thương mại đã được sử dụng trên, mặc dù tên thương mại đó chưa được đăng ký. Theo pháp luật Tây Ban Nha, nếu tên thương mại là tên của chủ công ty thì quyền đối với tên thương mại xuất hiện không phụ thuộc vào việc đăng ký, còn nếu tên thương mại là tên hư cấu thì quyền đối với tên thương mại đó chỉ được công nhận sau khi nó đã được đăng ký[5].
Một đặc trưng quan trọng của chế độ pháp lý đối với tên thương mại của các quốc gia trên thế giới là, quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có những hạn chế nhất định về mặt đối tượng và không gian. Ở điểm này dường như chế độ pháp lý đối với tên thương mại có những nét tương đồng với một số đối tượng quyền sở hữu công nghiệp khác như sáng chế, nhãn hiệu. Tuy nhiên, sự hạn chế về đối tượng và không gian của quyền đối với tên thương mại được xem xét cụ thể như sau:
Tại Pháp, trong một tranh chấp về tên thương mại “OPEC” giữa một công ty sản xuất và tiêu thụ giấy và các sản phẩm về giấy với một công ty khác hoạt động trong lĩnh vực in và phát hành sách. Công ty thứ nhất bị công ty thứ hai kiện với lý do đã sử dụng tên thương mại “OPEC” trùng với những chữ cái đầu tiên trong tên đầy đủ của công ty thứ hai. Tòa án nhân dân thành phố Mác Xây đã từ chối công nhận đơn kiện nói trên với lý do: Thứ nhất, đối tượng bảo hộ ở đây phải là tên đầy đủ của công ty chứ không phải là những thành phần của nó; thứ hai, phạm vi hoạt động của bị đơn và nguyên đơn là khác nhau, do đó không thể nói đến vi phạm quyền đối với tên thương mại trong trường hợp này.
Ranh giới về lãnh thổ: Quyền đối với tên thương mại chỉ có hiệu lực trong một phạm vi không gian nhất định nơi tên thương mại được đăng ký. Tuy nhiên, theo pháp luật tại một loạt các nước bảo hộ tên thương mại trên cơ sở sự kiện sử dụng tên thương mại, thì tên thương mại được bảo hộ trên toàn bộ lãnh thổ từng nước đó không phụ thuộc vào mức độ được biết đến của nó tại các vùng lãnh thổ khác nhau trong nước. Như vậy, tùy thuộc vào pháp luật của các nước, tên thương mại có thể được bảo hộ trên toàn bộ lãnh thổ hoặc chỉ trong một phạm vi vùng nhất định của một quốc gia, nơi mà tên thương mại được đăng ký và trở nên phổ biến đối với mọi người. Những điều kiện bảo hộ tên thương mại của công dân nước sở tạicũng được áp dụng với tên thương mại của nước ngoài (trừ điều kiện về đăng ký). Nếu tại nước sở tại, tên thương mại nội địa được bảo hộ trên cơ sở nó đã được biết đến trên toàn bộ lãnh thổ hoặc một vùng lãnh thổ nhất định thì tên thương mại nước ngoài cũng chỉ được bảo hộ nếu như nó đã có danh tiếng tại nước đó. Ngược lại, nếu như tại nước sở tại điều kiện tên thương mại đã được biết đến không phải là một trong các tiêu chí bảo hộ thì tên thương mại nước ngoài sẽ được bảo hộ không phụ thuộc vào mức độ được biết đến của nó tại nước này. Do đó, có thể tồn tại những trường hợp nghịch cảnh khi tại nước xuất xứ tên thương mại chỉ được bảo hộ trên một phần lãnh thổ (nơi nó đã được biết đến), nhưng tại một nước khác, nơi không đưa ra điều kiện bảo hộ tên thương mại phải được biết đến, thì cũng tên thương mại đó lại được bảo hộ trên toàn lãnh thổ (mặc dù nó chưa được biết đến tại nước này).
Bên cạnh đó, nếu như pháp luật thường dành sự bảo hộ cao hơn đối với nhãn hiệu nổi tiếng thì trong khoa học pháp lý không tồn tại khái niệm tên thương mại nổi tiếng và chế độ bảo hộ cao hơn đối với những tên thương mại được biết đến một cách rộng rãi, có uy tín hơn cũng không tồn tại.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường với đặc tính cơ bản là cạnh tranh như hiện nay, thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm đến việc tạo ra công cụ pháp lý cho việc giải quyết những vấn đề liên quan đến tên thương mại, bởi lẽ, sự phát triển ổn định của các doanh nghiệp là tiền đề cho một nền kinh tế lớn mạnh.
2. Pháp luật Việt Nam về tên thương mại
2.1. Sự phát triển của pháp luật về tên thương mại ở Việt Nam
Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về tên thương mại có thể chia ra làm 3 giai đoạn là: Giai đoạn trước năm 2000; Giai đoạn từ năm 2000 – 2005; Giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
* Giai đoạn trước năm 2000
Cho đến trước khi Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 thì vấn đề bảo hộ tên thương mại được đề cập trong một số văn bản pháp luật như: Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996 đã công nhận và bảo hộ quyền tự do sáng tạo của cá nhân và quyền sở hữu công nghiệp (Điều 26 về quyền nhân thân, Điều 27 về bảo vệ quyền nhân thân, Điều 97 tên gọi của pháp nhân, Điều 780); Luật Thương mại… (Điều 20 về nội dung đăng ký kinh doanh; Điều 24 về tên thương mại, biển hiệu; Điều 32 về thuê, cho thuê, chuyển nhượng sản nghiệp thương mại), Luật Doanh nghiệp năm (Điều 24 về tên trụ sở và con dấu của doanh nghiệp), Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng (Điều 7 về nghiêm cấm một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh), sau khi ban hành Bộ luật Dân sự, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (Điều 6 về tiêu chí bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá). Tuy nhiên, việc bảo hộ tên thương mại thông qua các quy định nêu trên còn đạt hiệu quả thấp, bởi lẽ:
Ở giai đoạn này, pháp luật chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về tên thương mại, do đó tên thương mại chỉ được bảo hộ gián tiếp thông qua những quy định về quản lý tên thương mại, tên gọi của pháp nhân, nội dung đăng ký kinh doanh của thương nhân…
Bên cạnh đó, mỗi văn bản pháp luật lại chỉ áp dụng cho một loại đối tượng nhất định: Bộ luật Dân sự năm 1995 không đề cập tới vấn đề tên gọi của tổ hợp tác, hộ gia đình; Luật Thương mại chỉ áp dụng cho các chủ thể kinh doanh thương mại (buôn bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại); Luật Doanh nghiệp không áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị và các cá nhân, chủ thể kinh doanh nhỏ; Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng chỉ áp dụng cho việc tiêu dùng trong sinh hoạt chứ không áp dụng cho tiêu dùng trong sản xuất, dịch vụ[6].
Ngoài ra, tập hợp tất cả các quy định tại các văn bản pháp luật nêu trên cũng chưa đề cập một cách đầy đủ, toàn diện việc bảo hộ tên thương mại. Cụ thể: Không có quy định về nguyên tắc xác lập quyền đối với tên thương mại (tên thương mại chưa đăng ký hoàn toàn chưa được bảo hộ); không có quy định về nội dung quyền đối với tên thương mại; phạm vi bảo hộ tên thương mại còn rất hạn hẹp, chưa bảo đảm ngăn cấm việc sử dụng bất kỳ chỉ dẫn thương mại nào xung đột với tên thương mại, kể cả việc sử dụng tên thương mại không đăng ký, nhãn hiệu hàng hoá không đăng ký (mới chỉ bảo đảm được các tên thương mại đăng ký sau không bị trùng với các tên thương mại đăng ký trước và nhãn hiệu hàng hoá đăng ký bảo hộ không được nhầm lẫn với tên thương mại đang được bảo hộ).
* Giai đoạn từ năm 2000 đến 2005
Để khắc phục tình trạng kém hiệu quả của việc bảo hộ tên thương mại đã nêu trên và nhất là đáp ứng nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, ngày 3/10/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2000/NĐ-CPvề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật đề cập một cách khá đầy đủ việc bảo hộ tên thương mại. Cụ thể, Nghị định có quy định về điều kiện bảo hộ tên thương mại, chủ sở hữu tên thương mại, nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại, thời hạn bảo hộ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại, quyền yêu cầu xử lý việc xâm phạm, trình tự và thủ tục xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại.
So với giai đoạn trước năm 2000 thì sự ra đời của Nghị định số 54/2000/NĐ-CP đã tạo nên cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ tên thương mại với tư cách là đối tượng của sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về tên thương mại trong giai đoạn này vẫn còn chung chung, chưa cụ thể và toàn diện, ví dụ như: Nghị định này vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa cụ thể về tên thương mại, không có quy định về nguyên tắc xác lập quyền đối với tên thương mại, quy định về việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại không rõ ràng, cụ thể.
* Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Có thể nói, đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển của pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ nói chung và về lĩnh vực sở hữu công nghiệp nói riêng, trong đó có pháp luật về tên thương mại, với sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và các văn bản pháp luật khác như: Luật Doanh nghiệp năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP (về đăng ký kinh doanh), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP (về đăng ký doanh nghiệp). Những văn bản pháp luật trên ra đời đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ tên thương mại ở Việt Nam, vì các văn bản này đề cập tương đối đầy đủ và chi tiết vấn đề bảo hộ tên thương mại với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp.
Những quy định có liên quan trong các văn bản pháp luật nói trên chothấy, việc bảo hộ tên thương mại của Việt Nam được tiến hành tương đối phù hợp với thông lệ của nhiều nước trong lĩnh vực này. Theo đó, tên thương mại ở Việt Nam được hình thành theo nguyên tắc “tự do lựa chọn”. Các cá nhân, tổ chức hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn chỉ dẫn thương mại là tên thương mại mà dưới nó họ sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên cũng tồn tại một số hạn chế nhất định đối với việc lựa chọn tên thương mại, chẳng hạn như: Tên thương mại không được là tên của các cơ quan hành chính, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tên thương mại của doanh nghiệp Việt Nam phải được viết bằng tiếng Việt và có thể bổ sung thêm bằng một số tiếng nước ngoài với khổ chữ nhỏ hơn… Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại tự động được xác lập khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật mà không cần phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó có nghĩa là, quyền đối với tên thương mại xuất hiện từ sự kiện sử dụng tên thương mại, không phụ thuộc tên thương mại đó có được đăng ký hay không. Tên thương mại tại Việt Nam được bảo hộ theo nguyên tắc “sự thật”. Tên thương mại phải thể hiện đúng loại hình tổ chức kinh doanh, phạm vi trách nhiệm pháp lý của các chủ thể sử dụng tên thương mại đó. Pháp luật thừa nhận quyền đối với tên thương mại là quyền tài sản thuộc sở hữu của chủ nhân tên thương mại đó. Những văn bản pháp luật này quy định cụ thể về các quyền của chủ sở hữu tên thương mại, các hành vi vi phạm, các phương thức và biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại.
2.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là việc Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật để điểu chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh sau khi con người tạo ra tên thương mại, Nhà nước tổ chức các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sử dụng hợp pháp tên thương mại và những chủ thể khác liên quan đến việc sử dụng tên thương mại.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại gồm: Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về tên thương mại; vấn đề xác lập quyền; các phương thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tên thương mại (bảo vệ quyền).
Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nhằm đảm bảo cho chủ sở hữu có vị trí độc quyền về sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, để bồi hoàn công sức của họ và thu lợi nhuận.
Với ý nghĩa này, quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là quyền, nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc xác lập quyền đối với tên thương mại, dựa trên hành vi sử dụng tên thương mại của các chủ thể. Các quyền chủ quan này phải phù hợp với pháp luật quyền sở hữu công nghiệp nói chung và pháp luật về tên thương mại nói riêng.
* Vaitrò của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Tên thương mại là sản phẩm trí tuệ và tài sản vô hình của doanh nghiệp, bởi vậy việc bảo hộ tên thương mại có ý nghĩa rất lớn. Bảo hộ tên thương mại tạo nên một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp quảng bá và lưu thông hàng hoá một cách có hiệu quả trên thị trường cũng như bảo vệ và phát triển thị phần của mình, bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế.
Việc bảo hộ tên thương mại đầy đủ và có hiệu quả là cơ sở để chúng ta tham gia vào các sân chới lớn, các thị trường song phương, khu vực và toàn cầu, thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài, từ đó tạo ra những bước khởi sắc mới cho nền kinh tế. Bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ tên thương mại nói riêng đã trở thành một cam kết quan trọng mà Việt Nam phải thực hiện trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Điều kiện bảo hộ tên thương mại
Tên gọi của các chủ thể kinh doanh chỉ được coi là tên thương mại và các chủ thể này được hưởng các quyền chủ thể đối với tên thương mại của mình khi đáp ứng được các yêu cầu và điều kiện bảo hộ cụ thể. Tên thương mại muốn được bảo hộ phải đáp ứng các điều kiện sau:
Tính phân biệt của tên thương mại: Không phải bất kỳ tên thương mại nào cũng được pháp luật bảo hộ, để được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ, nhìn chung, tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Sự phân biệt này cần thiết được đặt ra trong cùng một lĩnh vực kinh doanh và khu vực kinh doanh với các yếu tố phân biệt chủ yếu như: Phân biệt về hàng hoá, dịch vụ, hoạt động, cơ sở kinh doanh. Thông qua những yếu tố này để cá thể hoá chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác. Điều này cũng có thể được hiểu là nếu tên thương mại của hai chủ thể kinh doanh trùng nhau hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn nhưng hai chủ thể kinh doanh trong hai lĩnh vực khác nhau, thuộc hai lãnh thổ khác nhau thì vẫn được chấp nhận bảo hộ. Cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh là hai điều kiện song song đi đôi với nhau, nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì tên thương mại sẽ không được bảo hộ. Chẳng hạn như hai tên thương mại trùng nhau nhưng hai chủ thể kinh doanh lại không hoạt động trên một khu vực địa lý tuy rằng họ kinh doanh trong cùng một lĩnh vực hoặc hai chủ thể kinh doanh ở trên cùng một khu vực địa lý nhưng lại không kinh doanh trên cùng một lĩnh vực cũng không được pháp luật chấp nhận bảo hộ. Điều kiện bảo hộ này của tên thương mại cũng đơn giản hơn so với nhãn hiệu (theo quy định của pháp luật, một nhãn hiệu muốn được bảo hộ còn phải đáp ứng cả điều kiện: Phải không trùng và không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với các hàng hoá, dịch vụ không trùng và tương tự nếu các nhãn hiệu đó được công nhận là nổi tiếng hay được thừa nhận rộng rãi, được nhiều người biết đến).
Tên thương mại được coi là có khả năng phân biệt nếu đáp ứng được các điều kiện sau đây:
– Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi: Nếu tên thương mại chỉ có phần mô tả thì không được bảo hộ, bởi lẽ phần mô tả không có khả năng tạo nên tính phân biệt cho tên thương mại (hai doanh nghiệp có tên thương mại khác nhau có thể có phần mô tả giống nhau), vì vậy tên thương mại bắt buộc phải chứa thành phần tên riêng để tạo ra sự phân biệt giữa các chủ thể kinh doanh[7].
– Tên thương mại không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử dụng từ trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Tên trùng là trường hợp tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được viết và đọc bằng tiếng Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
Các trường hợp sau đây được coi là gây nhầm lẫn với tên của các doanh nghiệp khác: Tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được đọc giống như tên doanh nghiệp đã đăng ký; tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên doanh nghiệp đã đăng ký bởi ký hiệu “&”; ký hiệu “-”; chữ “và”; tên viết tắt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên viết tắt của doanh nghiệp khác đã đăng ký; tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp khác đã đăng ký; tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký bởi một hoặc một số số tự nhiên, số thứ tự hoặc một số chữ cái tiếng Việt (A, B, C…) ngay sau tên riêng của doanh nghiệp đó, trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng ký; tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký bởi từ “tân” ngay trước, hoặc “mới” ngay sau tên của doanh nghiệp đã đăng ký; tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký bởi các từ “miền Bắc”, “miền Nam”, “miền Trung”, “miền Tây”, “miền Đông” hoặc các từ có ý nghĩa tương tự; trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng ký; tên riêng của doanh nghiệp trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký.
– Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng. Tên thương mại và nhãn hiệu đều có chức năng chỉ dẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ đó của cơ sở sản xuất kinh doanh nào, đều đưa ra một kết quả chung rằng ai là người chịu trách nhiệm về những hàng hoá, dịch vụ đó, bởi vậy nếu đã có nhãn hiệu thuộc quyền của người khác đã được xác lập trước thời điểm tên thương mại được bắt đầu thì đương nhiên chủ thể kinh doanh sẽ không được sử dụng tên thương mại đó nữa.
Cũng do tên thương mại thường là tên doanh nghiệp hoặc được sử dụng thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của mỗi chủ thể kinh doanh, nên quyền sở hữu tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực và lãnh thổ kinh doanh, mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký tên thương mại đó tại Cục Sở hữu trí tuệ. Điều này khác với việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với các chỉ dẫn đầu tư khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, những đối tượng này cần phải đăng ký mới được bảo hộ.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục đăng ký nào. Việc đăng ký tên chủ thể kinh doanh theo quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục đăng ký hoạt động của doanh nghiệp và của các chủ thể kinh doanh khác chỉ có ý nghĩa ghi nhận ý định sử dụng tên gọi của chủ thể đó mà không có ý nghĩa xác lập quyền. Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh, vì vậy, phải có sự tồn tại củatổ chức, cá nhân mang tên thương mại thì việc sử dụng tên thương mại mới có ý nghĩa về mặt pháp lý. Tuy nhiên, việc có được giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không phải là cơ sở pháp lý tuyệt đối để nói rằng quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại đã được xác lập. Để được xác lập, tên thương mại còn phải được sử dụng thông qua các hoạt động kinh doanh. Chủ sở hữu quyền đối với tên thương mại là tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động đăng ký kinh doanh dưới tên thương mại đó. Trương hợp trong cùng một lĩnh vực kinh doanh và trên cùng một địa bàn kinh doanh có nhiều người cùng sử dụng một tên thương mại thì quyền đối với tên thương mại thuộc về người sử dụng đầu tiên.
Về mặt nguyên tắc, quyền đối với tên thương mại mang tính không hạn chế về mặt thời gian. Điều đó có nghĩa là sau khi đã xác lập quyền đối với tên thương mại, chủ thể kinh doanh có thể sử dụng nó mà không bị bất cứ một hạn chế nào về mặt thời gian, khi mà chủ thể kinh doanh còn tồn tại và tên thương mại còn thể hiện đúng hình thái tổ chức của chủ thể đó. Nếu địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh thay đổi, ví dụ như do kết quả của việc tổ chức lại doanh nghiệp hay thay đổi chủ doanh nghiệp thì những thay đổi đó cần được đưa vào tên thương mại, đương nhiên quyền đối với tên thương mại sẽ chấm dứt khi chủ thể kinh doanh chấm dứt sự tồn tại của mình.
Bên cạnh việc đưa ra những điều kiện bảo hộ tên thương mại, pháp luật còn quy định những tên gọi không được bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương mại, bao gồm:
Một là, tên gọi của các cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp hoặc các chủ thể không liên quan tới hoạt động kinh doanh, bởi bản chất của tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân chỉ dùng trong hoạt động kinh doanh, còn tên gọi của các tổ chức, cá nhân khác không có chức năng hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật cũng như không liên quan đến các hoạt động kinh doanh thì sẽ không được coi là tên thương mại;
Hai là, tên gọi nhằm mục đích thực hiện chức năng của tên thương mại nhưng không có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh của các cơ sở kinh doanh trong cùng một lĩnh vực;
Ba là, tên thương mại gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó. Địa bàn kinh doanh được hiểu là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng. Theo Nghị định số 88/2006/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh quy định: “Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn vớitên doanh nghiệp đã đăng ký trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (Điều 11), thì địa bàn kinh doanh của doanh nghiệp là trong phạm vi một tỉnh, thành phố. Còn theo Nghị định số 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp quy định: “Không được đặt tên trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký trong phạm vi toàn quốc”, thì “địa bàn kinh doanh” là trong phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, hiện nay, khi đăng ký kinh doanh cho một doanh nghiệp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xem xét tên thương mại của doanh nghiệp đó có khả năng gây nhầm lẫn với tên thương mại của tất cả các doanh nghiệp khác trong phạm vi toàn quốc hay không. Hay nói cách khác, phạm vi bảo hộ tên thương mại là trong phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam. Lĩnh vực kinh doanh có thể hiểu như một mảng của nền kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình để thu lợi nhuận như lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực may mặc, lĩnh vực sản xuất đồ gia dụng, nội thất. Căn cứ vào Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, người thành lập doanh nghiệp tự lựa chọn ngành, nghề kinh doanh và ghi mã ngành, nghề kinh doanh vào giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh đối chiếu và ghi ngành, nghề kinh doanh, mã số ngành, nghề kinh doanh vào giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp được cấp một mã số duy nhất gọi là mã số doanh nghiệp. Mã số này đồng thời là mã số đăng ký kinh doanh và mã số thuế của doanh nghiệp. Mã số doanh nghiệp tồn tại trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp và không được cấp lại cho tổ chức, cá nhân khác. Khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thì mã số doanh nghiệp chấm dứt hiệu lực và không được sử dụng lại. Như vậy, trong mỗi lĩnh vực kinh doanh nếu một doanh nghiệp đã đăng ký tên thương mại của mình mà sau đó người khác lại xin đăng ký một tên thương mại giống như thế thì tên thương mại của chủ thể xin đăng ký sau sẽ không được bảo hộ.
* Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Bản chất quyền đối với tên thương mại là khả năng bảo đảm cho chủ thể tham gia vào các giao dịch dưới tên thương mại của mình. Trên cơ sở đó một đặc trưng quan trọng của chế độ pháp lý đối với tên thương mại là quyền đối với tên thương mại mang tính chất đặc quyền. Chủ thể có độc quyền khai thác tên thương mại của mình với điều kiện việc khai thác đó phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại bao gồm tổng hợp các quyền của chủ sở hữu tên thương mại được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Pháp luật thừa nhận quyền đối với tên thương mại là quyền tài sản thuộc sở hữu của chủ sở hữu tên thương mại.
Tên thương mại là đối tượng sở hữu công nghiệp được xác lập tự độngdựa trên thực tế khai thác và sử dụng. Chủ sở hữu tên thương mại là những chủ thể (cá nhân, tổ chức) đang thực tế sử dụng, khai thác tên thương mại đó và nếu có tranh chấp xảy ra thì họ phải chứng minh được quyền hợp pháp của mình trước các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, chủ sở hữu tên thương mại còn là người được chuyển giao quyền sở hữu thông qua hợp đồng chuyển nhượng tên thương mại hoặc thông qua nhận di sản thừa kế. Theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu tên thương mại có các quyền cơ bản như:
Quyền sử dụng tên thương mại: Sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp vào khai thác để thu được các lợi ích từ chúng mang lại có thể được xem như một trong những quyền năng quan trọng nhất của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp. Trên thực tế có rất nhiều cách thức khai thác khác nhau, nhưng đối với tên thương mại thì đó là dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo.
Quyền định đoạt: Thực tế có nhiều cách thức để chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt của mình đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Thứ nhất, chủ sở hữu công nghiệp có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu của mình cho người khác. Quyền chuyển nhượng cho người khác toàn bộ quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức ký kết hợp đồng bằng văn bản (gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp) phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế. Tuy nhiên, việc chuyển giao tên thương mại có điểm đặc biệt là chủ sở hữu tên thương mại có quyền chuyển giao tên thương mại theo hợp đồng hoặc theo thừa kế cho người khác với điều kiện việc chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh với tên thương mại đó. Thứ hai, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có quyền từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với các đối tượng đó. Thứ ba, để thực hiện quyền định đoạt của mình, chủ sở hữu tên thương mại có quyền để lại thừa kế cho những người khác (theo di chúc hoặc theo pháp luật) sau khi chết. Thừa kế trong trường hợp này gắn với chuyển giao toàn bộ cơ sở kinh doanh kèm theo tên thương mại.
Bên cạnh những quyền tài sản nói trên, thì chủ sở hữu tên thương mại có quyền sử dụng các biện pháp bảo vệ khi tên thương mại của mình bị xâm phạm, ví dụ như: Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi xâm phạm quyền của mình phải chấm dứt hành vi đó và bồi thường thiệt hại.
Tóm lại, chủ sở hữu hợp pháp tên thương mại được pháp luật bảo hộ đầy đủ các quyền cơ bản nêu trên.
* Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Việc bảo vệ tên thương mại cũng giống như bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ khác là bảo vệ quyền tài sản của các chủ thể và được hiểu dưới hai phương diện sau đây:
Thứ nhất, theo phương diện khách quan: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là tổng hợp các quy định của pháp luật công nhận chủ sở hữu tên thương mại được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được pháp luật thừa nhận.
Thứ hai, theo phương diện chủ quan: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là những biện pháp cụ thể được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu tên thương mại tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại gồm việc xác định hành vi, tính chất và mức độ xâm phạm quyền đối với tên thương mại, xác định thiệt hại, yêu cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành chính, kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, giám định sở hữu trí tuệ.
Qua những phân tích trên đây có thể thấy, pháp luật Việt Nam về bảo hộ tên thương mại ngày càng tiệm cận hơn với pháp luật của các quốc gia khác và phù hợp hơn với pháp luật quốc tế về bảo hộ tên thương mại. Hy vọng rằng, với việc bảo vệ của pháp luật đối với tên thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội cạnh tranh lành mạnh và khẳng định thương hiệu của mình với các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới.
Bùi Huyền
[1] Công ước Paris năm 1883 (sửa đổi, bổ sung năm 1976)
[2] Nguyễn Thị Quế Anh (2002), “Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế – Luật
[3] Nguyễn Thị Quế Anh (2002), “Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế – Luật
[4] Phan Thị Thanh Hà (2000), Báo cáo tại Hội thảo về bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp mới ở Việt Nam, Hà Nội.
[5] Nguyễn Thị Quế Anh (2002), “Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế – Luật
[6] Nguyễn Thị Quế Anh (2000), “Bảo hộ tên thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ tên thương mại”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế – Luật
[7] Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp năm 2005, Hà Nội
Tham khảo thêm:
- Những điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
- Những đặc trưng của nghề thừa phát lại
- Hoàn thiện chế định loại từ trách nhiệm hình sự
- Vị trí chiến lược của Biển Đông và vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông
- Từ Tuyên bố Cebu năm 2007 đến Văn kiện khung ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di trú
- Một số vấn đề pháp lý khi xem xét gia nhập Công ước về quy chế người không quốc tịch năm 1954
- Vấn đề xác định cha, mẹ, con và mang thai hộ theo Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi
- Đặc trưng của các biện pháp cưỡng chế hành chính theo pháp luật Việt Nam
- Hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba theo pháp luật dân sự hiện hành
- Vấn đề bảo đảm quyền con người trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.