Đã trả đơn yêu cầu thi hành án thì tính lãi suất chậm thi hành án từ khi nào?

Đã trả đơn yêu cầu thi hành án thì tính lãi suất chậm thi hành án từ khi nào?

 

 

Bản án tuyên ông A trả cho ông B số tiền cụ thể và lãi suất chậm thi hành án kể từ ngày ông A có đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án đã thụ lý và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu. Trong thời gian tổ chức thi hành, ông B đã trả được 1/2 số tiền, cơ quan thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông B, kết quả ông B chưa có điều kiện thi hành án và đã trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho ông A từ tháng 3/2003 đến 12/2009 cơ quan thi hành án đã thụ lí lại vì ông B đã có điều kiện thi hành án trở lại. Trong thời gian từ 3/2003 đến 12/2009 cơ quan thi hành án có được tính lãi suất chậm trả đối với ông B không? Có được truy thu tiền cấp dưỡng nuôi con khi đứa bé đã trưởng thành? (trước đây thi hành án đã trả lại đơn yêu cầu và đến khi đứa bé đã trưởng thành bên phải thi hành án có điều kiện thi hành án trở lại, đồng thời thi hành án đã thụ lí trở lại – ra quyết định)

 

Gửi bởi: La Van Nhieu

Trả lời có tính chất tham khảo

Theo quy định tại khoản 1 Mục III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có quy định về tính lãi suất chậm thi hành án: “Để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự (nay là “lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố” quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 thay cho “lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định” theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự năm 1995), trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án”.

Pháp luật hiện nay không có quy định nào về trường hợp việc thi hành án đã trả đơn yêu cầu thi hành án do người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án trong thời gian trả đơn yêu cầu thi hành án. Vì thế, trong trường hợp nêu trên, lãi suất chậm thi hành án được tính đối với số tiền còn phải thi hành án kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (được hiểu là từ lần đầu, chứ không phải lần sau). Nguyên tắc thanh toán tiền thi hành án khi thu được tiền, thì phải thanh toán khoản lãi trước rồi đến tiền gốc. Do vậy, ông B đã thi hành án được ½ số tiền (bao gồm cả tiền tiền lãi) trước khi trả đơn yêu cầu thi hành án, thì lãi suất chậm thi hành án đối với số tiền gốc còn phải thi hành án được tính từ sau tháng thanh toán tiền thi hành án đến khi thi hành xong.

Các văn bản liên quan:

Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự

Thông tư liên tịch 01/TTLT Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản

Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục THADS

Tham khảo thêm:


TỔNG ĐÀI LUẬT SƯ 1900 0191 - GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT TRỰC TUYẾN MIỄN PHÍ MỌI LÚC MỌI NƠI
Trong mọi trường hợp do tính cập nhật của văn bản biểu mẫu pháp luật và sự khác nhau của từng tình huống, việc tự áp dụng sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn.
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN

1900.0191