1. Chuyển giao nghĩa vụ thi hành án giao đất
Gửi bởi: Nguyen Thu Huyen
Trả lời có tính chất tham khảo
Trong trường hợp này, nghĩa vụ thi hành án của ông A và bà B phải trả ½ diện tích đất cho ông C, bà D và phải nộp án phí. Việc thi hành án chưa xong thì bà B chết. Do đó, việc thi hành án được thực hiện chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật về thừa kế tại Điều 54 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự”.
Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì trường hợp này ông A và bà B phải thực hiện hai loại nghĩa vụ dân sự: Nghĩa vụ trả tiền (án phí) và nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất. Việc thi hành án đối với hai loại nghĩa vụ này như sau:
1. Đối với việc giao quyền sử dụng đất cho ông C và bà D:
Bà B đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan thi hành án dân sự ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án.
Nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp này thuộc về ông A, nhưng có vợ mới của ông A sống ở khu đất trên, vì thế nếu ông A và những người đang ở trên diện tích đất đó (kể cả vợ mới của ông A và những người khác) không tự nguyện giao phần đất cho ông C, bà D thì cơ quan thi hành án cưỡng chế họ để giao quyền sử dụng đất cho ông C và bà D theo nội dung bản án của Toà án.
2. Đối với việc thi hành án phí:
Bà B chết nhưng có tài sản để lại là quyền sử dụng đất, do đó đây là trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về thanh toán tiền đã chết mà có để lại tài sản thì cơ quan thi hành án có văn bản thông báo, ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người phải thi hành án thoả thuận thực hiện. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người quản lý di sản không thoả thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định thời hạn 30 ngày kể từ ngày thông báo để những người liên quan đến tài sản thực hiện quyền khởi kiện. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này, ông A và những người thừa kế khác của bà B thi hành nghĩa vụ án phí cho bà B thì cơ quan thi hành án dân sự không xử lý tài sản của bà B. Nếu không thi hành án phí, thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý quyền sử dụng đất hoặc tài sản khác (nếu có) của bà B để thi hành phần nghĩa vụ về án phí của bà B.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
2. Lương có phải tài sản chung trong thi hành án
Bà Nguyễn Thị Hường đang làm việc tại cơ quan nhà nước. Chồng bà Hường là ông Nguyễn Văn Tiến đã bị Tòa án xét xử và phải thi hành án số tiền 18.000.000đ. Sau khi xác minh điều kiện thi hành án, do ông Tiến không có tài sản riêng, không có thu nhập nên cán bộ thi hành án yêu cầu xác minh lương của bà Nguyễn Thị Hường với lý do lương của vợ, chồng được coi là tài sản chung hợp nhất trong thời kỳ hôn nhân nên xác định lương của bà Hường để làm cơ sở xác minh tài sản chung của ông Tiến và bà Hường trong việc giải quyết thi hành án. Lập luận của cơ quan thi hành án có đúng không và nếu bà Hường có thu nhập cao thì có bị khấu trừ để trừ vào nghĩa vụ thi hành án của ông Tiến hay không?
Gửi bởi: Mai Hoàng Anh
Trả lời có tính chất tham khảo
Việc xác định tài sản chung của vợ chồng thực hiện theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Thu nhập từ việc hưởng lương của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân tồn tại theo quy định nêu trên là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, khoản tiền lương của vợ hoặc chồng trở thành tài sản chung của vợ chồng phải xác định kể từ thời điểm vợ hoặc chồng nhận được lương (tức là khoản tiền lương thực nhận tính đến thời điểm mà họ có được). Vì thế, khi có khoản tiền này thì Chấp hành viên mới có cơ sở xác định phần tài sản tài riêng của vợ, chồng.
Việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng phải tuân thủ quy định Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ. Đối với tài sản chung chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án. Do vậy, khi vợ, chồng chưa nhận lương thì chưa có cơ sở xác định phần tài sản của vợ, chồng trong khoản lương đó. Tuy vậy, cơ quan thi hành án xác minh lương của bà Hường để có cơ sở xác định đầy đủ, chính xác tài sản chung của vợ chồng ông Tiến, bà Hường là cần thiết.
Pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay chỉ quy định biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án (trong đó có thu nhập từ lương của người phải thi hành án) mà không quy định cưỡng chế trừ vào thu nhập của vợ hoặc chồng của người phải thi hành án. Vì thế, không có cơ sở để Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào lương của vợ hoặc chồng không phải là người phải thi hành án.
Vì vậy, trường hợp ông Tiến, bà Hường nêu trên Chấp hành viên không áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của bà Hường vì bà Hường không phải là người phải thi hành án. Tuy nhiên, nếu bà Hường có thu nhập từ hưởng lương cao thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế khác (thu tiền của người phải thi hành án đang do người khác giữ hoặc biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án.v.v) nếu xác định được phần tài sản của ông Tiến trong khối tài sản của vợ chồng ông Tiến, bà Hường có được từ thu nhập của bà Hường.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Nghị định 70/2001/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP Của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
Luật 22/2000/QH10 Hôn nhân và gia đình
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
3. Xóa án tích
Tôi có người nhà, tháng 11/1996 bị xử phạt 4 năm tù và bồi thường cho một công ty xây dựng 100 triệu đồng, phải nộp 10 triệu án phí và 50 nghìn lệ phí. Đến tháng 1/2008, người nhà tôi đã thi hanh xong án phạt tù; đến tháng 12/2002, người nhà tôi nộp xong khoản án phí là 10 triệu đồng và 50 nghìn lệ phí tòa. Từ đó đến nay, người nhà tôi không thấy có quyết định phải thi hành khoản bồi thường 100 triệu (công ty xây dựng không có đơn yêu cầu thi hành án). Vậy tôi hỏi: Trường hợp người nhà tôi đã đủ điều kiện đương nhiên xóa án tích chưa, nếu bây giờ Tòa án ra quyết định xóa án tích thì thời gian được tính để xóa án được tính sau 7 năm kể từ tháng 12/2002 có đúng không?
Gửi bởi: phanlehoainam
Trả lời có tính chất tham khảo
Đương nhiên được xoá án tích được quy định tại Điều 64 Bộ luật Hình sự như sau:
Những người sau đây đương nhiên được xoá án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.
Điều 65 Bộ luật Hình sự quy định về việc xoá án tích theo quyết định của Toà án như sau:
1. Toà án quyết định việc xoá án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án trong các trường hợp sau đây:
a) Đã bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
b) Đã bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
c) Đã bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
2. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.”
Cách tính thời hạn để xoá án tích được quy định tại Điều 67 Bộ luật Hình sự:
“1. Thời hạn để xoá án tích quy định tại Điều 64 và Điều 65 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.
2. Nếu chưa được xoá án tích mà phạm tội mới, thì thời hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.
3. Việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án.
4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.”
Như vây, với trường hợp của bạn hỏi theo quy định tại khoản 3 Điều 67 Bộ luật hình sự thì bạn chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung đối với khoản tiền bồi thường cho Công ty xây dựng là 100 triệu đồng nên chưa được xem là bạn đã thi hành xong bản án, nên bạn chưa được xóa án tích theo Điều 64 Bộ luật Hình sự.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 15/1999/QH10 Hình sự
Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Tổng cục Thi hành án dân sự
4. Trả đơn yêu cầu kèm theo bản án thi hành án
Khi trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành án, ngoài quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án có cần phải gửi trả lại Bản án, Quyết định của Tòa án, đơn yêu cầu thi hành án cho đương sự hay không? Văn bản nào hướng dẫn?
Gửi bởi: Trịnh Thị Quỳnh
Trả lời có tính chất tham khảo
Điều 31 Luật Thi hành án dân sự quy định về đơn yêu cầu thi hành án. Théo đó, đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung chính sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án; nội dung yêu cầu thi hành án và thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Người làm đơn yêu cầu thi hành án phải ghi rõ ngày, tháng, năm và ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân. Trường hợp người yêu cầu thi hành án trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự thì phải lập biên bản ghi rõ các nội dung quy định, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu và chữ ký của người lập biên bản. Biên bản có giá trị như đơn yêu cầu thi hành án.
Kèm theo đơn yêu cầu thi hành án, phải có bản án, quyết định được yêu cầu thi hành và tài liệu khác có liên quan, nếu có. Người yêu cầu thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại Điều 66 của Luật này.
Như vậy, đơn yêu cầu thi hành án bắt buộc phải có bản án, quyết định mà người yêu cầu gửi kèm theo và đó được xác định là một phần tài liệu của đơn yêu cầu thi hành án. Vì thế, khi trả đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải bản án, quyết định kèm thoe đơn yêu cầu thi hành án.
Tuy nhiên, để đảm bảo thuận lợi cho việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát hoạt động thi hành án dân sự, trước khi trả đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự cần phô tô đơn yêu cầu thi hành án, bản án, quyết định được thi hành và các tài liệu trả đương sự để lưu vào hồ sơ trả đơn đơn yêu cầu thi hành án cùng với các tài liệu khác mà cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiên, như: Quyết định thi hành án, biên bản xác minh, biên bản làm việc… của hồ sơ thi hành án đó.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
5. Thanh toán tiền thi hành án trong thời hạn tự nguyện thi hành án
Biểu mẫu số C01-THA và C01a-THA ban hành theo Thông tư số 09/2011/TT-BTP ngày 30/5/2011 của Bộ Tư pháp có nội dung người phải thi hành án có trách nhiệm tự nguyện thi hành án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ Quyết định này. Vậy trong trường hợp ra quyết định thi hành án chủ động đối với khoản án phí ly hôn mà người phải thi hành án đã nộp tạm ứng án phí và trường hợp quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án đã tự nguyện nộp tiền trước khi ra quyết định thi hành án và có đơn xin tự nguyện nộp tiền thi hành án thì trong quyết định thi hành án cần phải có nội dung: Người phải thi hành án có trách nhiệm tự nguyện thi hành án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ Quyết định này không?
Gửi bởi: Trương Vũ Ngọc Thư
Trả lời có tính chất tham khảo
Thời hạn tự nguyện thi hành án được hiểu là khoảng thời gian mà hết thời hạn đó người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn tự nguyện thi hành án được quy định tại Đều 45 Luật Thi hành án dân sự là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Thời hạn tự nguyện thi hành án không có nghĩa là trong khoảng thời gian này thì không được thực hiện việc thi hành án.
Đối với những trường hợp đã thu được tiền, tài sản của người phải thi hành án nộp trước khi xét xử hoặc người phải thi hành án nộp tiền, tài sản trong gian tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thu được tiền quy định tại khoản 5 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và Điều 10 Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2012 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự.
Biểu mẫu quyết định thi hành án ban hành kèm theo Thông tư số 09/TT-BTP ngày 30/5/2011 của Bộ Tư pháp có phần thời hạn tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án thực hiện theo biểu mẫu đó nhưng được giải quyết việc thi hành án đối với các khoản tiền, tài sản đã thu được trong thời hạn thanh toán tiền thi hành án.
Các văn bản liên quan:
Thông tư 22/2011/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Thông tư 09/2011/TT-BTP Về việc ban hành và hướng dẫn việc quản lý, sử dụng các loạibiểu mẫu nghiệp vụ thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
6. Trách nhiệm cung cấp giấy tờ thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự
Vào năm 2005, gia đình tôi được Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình giải quyết về quyền chia thừa kế tài sản của ông, bà. Đội Thi hành án dân sự (nay là Chi cục Thi hành án dân sự) huyện Hưng Hà đã thi hành án giao đất thừa kế cho gia đình tôi theo Bản án của Toà án, có sự chứng kiến của Uỷ ban nhân dân xã Thái Hưng. Do không hiểu biết nhiều về pháp luật, Chấp hành viên giải quyết vụ việc không hướng dẫn và không cấp giấy tờ có liên quan để gia đình tôi làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên chúng tôi nghĩ mọi việc đã xong. Đến nay, khi gia đình tôi xin cấp quyền sử dụng đất thì cán bộ địa chính xã Thái Hưng yêu cầu phải có biên bản giao tài sản của Đội Thi hành án dân sự, khi tôi đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà để xin biên bản thì được trả lời là không tìm thấy. Vậy cho tôi hỏi làm sao tôi có thể lấy được giấy tờ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà? Tôi có thể được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của huyện Hưng Hà hay không?
Gửi bởi: Đăng Gia Thuấn
1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, được thay thế bằng Điều 39 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì Đội Thi hành án dân sự (nay là Chi cục Thi hành án dân sự) huyện Hưng Hà có nghĩa vụ phải cấp cho bạn các Quyết định và giấy tờ về thi hành án có liên quan để bạn làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Quyết định thi hành án; Quyết định cưỡng chế giao tài sản (nếu cơ quan Thi hành án dân sự đã ra quyết định cưỡng chế giao tài sản); Quyết định thu phí thi hành án; Quyết định kết thúc việc thi hành án và Biên bản giao tài sản kèm theo mặt bằng hiện trạng diện tích đất được giao, các giấy tờ khác có liên quan, cùng với Bản án của Toà án để bản làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã Thái Hưng và Uỷ ban nhân dân huyện Hưng Hà theo quy định của pháp luật.
2. Việc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà trả lời bạn là không tìm thấy hồ sơ để lấy lý do không cấp cho bạn các Quyết định thi hành án và các giấy tờ có liên quan như trên là không đúng với quy định của pháp luật. Vì theo quy định tại khoản 2, 3 Mục I của Thông tư số 06/2007/TT-BTP ngày 05/7/2007 và khoản 1, 2, 3 Mục I Thông tư số 22/2011/TT-BTP ngày 02/12/2011 của Bộ Tư pháp quy định về hướng dẫn thủ tục trong quản lý về thi hành án dân sự thì toàn bộ hồ sơ về thi hành án được Chấp hành viên lập, đánh theo thứ tự và được lưu trữ hồ sơ, do vậy không thể thất lạc hay mất mát.
Căn cứ theo Điều 34 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, được thay thế bởi Điều 39 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, bạn nên làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà cấp cho bạn các loại giấy tờ như trên, nếu không được cấp thì bạn có thể gửi đơn lên Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình để được giải quyết.
3. Theo quy định tại khoản 1,2,5 Điều 50 của Luật Đất đai và Điều 136 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai để bạn làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử đất của gia đình bạn đã chia thưa kế, cơ quan thi hành án đã giao cho gia đình bạn.
Các văn bản liên quan:
Thông tư 22/2011/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục trong quản lý hành chính về thi hành án dân sự
Nghị định 181/2004/NĐ-CP Về thi hành Luật Đất đai
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Pháp lệnh 13/2004/PL-UBTVQH11 Thi hành án dân sự
Thông tư 06/2007/TT-BTP Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự
Luật 13/2003/QH11 Đất đai
Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Tổng cục Thi hành án dân sự
7. Cơ quan thi hành án có quyền kê biên tài sản không?
Gửi bởi: Nguyễn Thanh Nhàn
Trả lời có tính chất tham khảo
Nội dung bạn hỏi chưa thực sự rõ tư cách pháp lý của cá nhân bạn hay doanh nghiệp mà bạn là chủ đối với các khoản: Nợ tiền thuế nhà nước, nợ tiền vay ngân hàng có thế chấp quyền sử dụng đất và khoản nợ của người nào đó đã khởi kiện được Toà án giải quyết? Khoản tiền thuế nhà nước đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hay chưa? Việc người nào đó khởi kiện cá nhân bạn hay doanh nghiệp của bạn đã được Toà án giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật hay chưa? Doanh nghiệp của bạn là doanh nghiệp tư nhân hay Công ty trách nhiệm hữ hay hoặc loại hình doanh nghiệp khác? Thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng có hợp pháp hay không? Vì vậy, chúng tôi không thể trả lời chính xác được. Do đó, bạn cần phân biệt rõ cá nhân hay doanh nghiệp nợ các khoản tiền nêu trên.
Giả sử toàn bộ các khoản nợ là của doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp, việc thế chấp thực hiện sau khi có bản án mà người nào đó đã khởi kiện thì theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự”, cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên, bán đấu giá để đảm bảo thi hànhh án.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
8. Trả tài sản cho vợ chồng được thi hành án
Gửi bởi: Ha Thi Thu Hien
Trả lời có tính chất tham khảo
Quyết định thi hành án về trả lại tài sản là một quyết định chủ động thi hành án theo Điều 36 Luật Thi hành án dân sự. Quyết định thi hành án có nội dung là trả lại tài sản cho vợ, chồng ông A thì vợ chồng ông A là người được thi hành án trả lại tài sản, do đó về nguyên tắc Chấp hành viên phải trả tài sản cho ông A và vợ ông A, tức là cả hai người nhận tài sản. Nếu ông A không đến nhận tài sản mà có giấy ủy quyền hợp lệ quy định tại Bộ luật Dân sự cho vợ ông A nhận tài sản thì Chấp hành viên mới được giao tài sản đó cho vợ ông A.
Vì thế, trường hợp bạn hỏi, Chấp hành thực hiện chưa đúng pháp luật.
Các văn bản liên quan:
Bộ luật 33/2005/QH11 Dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
9. Tôi có được yêu cầu chuyển thi hành án không?
2. Tôi xin hỏi trong mức phí THA, có phải sẽ bao gồm 2 loại: phí thi hành án và phí xác minh tài sản không? và hai loại đó thu sẽ có biên lai hay giấy tờ gì chứng minh (vì THA đã thu của tôi số tiền là 8.000.000 cho tổng số tiền thu được là 60.000.000đồng nhưng chưa có biên lai gì cả).
3. Tôi có quyền yêu cầu THA kê biên tài sản của ông A để trả cho tôi không, thời gian kéo dài như vậy thì rất khó cho tôi?
Tôi xin chân thành cảm ơn quý cơ quan đã trợ giúp!
Gửi bởi: Trần Thị Mai Phương
Trả lời có tính chất tham khảo
Thứ nhất, về thẩm quyền thi hành án, Điều 35 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định như sau:
1. Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở;
b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở;
c) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở;
d) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác.
2. Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định sau đây:
a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh trên cùng địa bàn;
b) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
c) Bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Toà án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
d) Quyết định của Trọng tài thương mại;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh;
e) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác;
g) Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành;
h) Bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp về thi hành án.
Như vây, trường hợp của bạn thuộc thẩm quyền giải quyết của Chi cục Thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và cơ quan thi hành hành án dân sự cấp trên sẽ không thụ lý giải quyết thi hành vụ việc của bạn. Nếu bạn chứng minh được Chấp hành viên đang trực tiếp giải quyết vụ việc cố tình không tổ chức thi hành án cho bạn thì bạn có quyền gửi đơn khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi Chấp hành viên đang giải quyết vụ việc để được giải quyết. Nếu vẫn tiếp tục không được giải quyết thỏa đáng thì bạn gửi đơn kiến nghị sự việc lên cơ quan thi hành án dân sự cấp trên để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về phí thi hành án dân sự
Điều 60 Luật Thi hành án dân sự quy định: Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự. Chính phủ quy định mức phí thi hành án dân sự, thủ tục thu nộp, quản lý, sử dụng phí thi hành án dân sự.
Quy định cụ thể về mức phí, thủ tục thu nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án được quy định tại Điều 33 Nghị định số 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009:
1. Mức phí thi hành án là 3% (ba phần trăm) trên số tiền hoặc giá trị tài sản thực nhận nhưng tối đa không vượt quá 200 triệu đồng/01 đơn yêu cầu thi hành án.
Trường hợp Tòa án không tuyên giá trị của tài sản hoặc có tuyên nhưng không còn phù hợp (thay đổi quá 20%) so với giá thị trường tại thời điểm thu phí thì cơ quan thu phí tổ chức định giá tài sản để xác định phí thi hành án phải nộp của người được thi hành án. Chi phí định giá do cơ quan thi hành án dân sự chi trả từ nguồn phí thi hành án được để lại.
2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thu phí thi hành án để thực hiện việc thu phí thi hành án khi chi trả tiền hoặc tài sản cho người được thi hành án.
Người được thi hành án không nộp phí thi hành án thì cơ quan thu phí có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án, bao gồm cả việc bán đấu giá tài sản đã giao cho người được thi hành án để bảo đảm thu hồi tiền phí thi hành án. Chi phí định giá, bán đấu giá tài sản để thu phí do người được thi hành án chi trả.
Như vậy, phí thi hành án bạn phải nộp là 3% trên số tiền thực nhận (cụ thể là 60.000.000đ x 3% = 1.800.000đồng).
Ngoài ra, người được thi hành án phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 Thông tư số 184 ngày 19/12/2011:
a) Chi phí xác minh điều kiện thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự đối với trường hợp người được thi hành án có đơn yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án, người được thi hành án chịu các chi phí:
– Chi tiền công tác phí cho các đối tượng tham gia vào việc xác minh điều kiện thi hành án.
– Chi bồi dưỡng cho các đối tượng tham gia vào quá trình xác minh điều kiện thi hành án.
– Các chi phí khác phục vụ trực tiếp cho việc xác minh điều kiện thi hành án.
Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 184 ngày 19/12/2011 quy định về mức chi cưỡng chế thi hành án: Chi bồi dưỡng cho những người trực tiếp thực hiện thông báo cưỡng chế thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án; những người trực tiếp thực hiện quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ:
– Chấp hành viên, công chức khác làm công tác thi hành án, kiểm sát viên, cảnh sát: Mức 50.000 đồng/người/ngày.
– Dân quân tự vệ, đại diện chính quyền địa phương và các đối tượng khác: Mức 70.000 đồng/người/ngày.
Như vậy, theo quy định thì bạn phải nộp phí xác minh về điều kiện thi hành án. Mức phí xác minh điều kiện thi hành án là 70.000 đồng/người/ngày.
Và về thủ tục thu phí thi hành án:
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thu phí thi hành án để thực hiện việc thu phí thi hành án khi chi trả tiền hoặc tài sản cho người được thi hành án. Như vậy, bạn chỉ phải nộp phí thi hành án khi có quyết định thu phí của thủ trưởng cơ quan thi hành án.
Hình thức thu phí: Theo quy định tại Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính quy định thì việc thu tiền phải thông qua chứng từ, biên lai. Khi thu tiền phí cho Ngân sách nhà nước cơ quan thi hành án phải sử dụng mẫu Biên lai C30, khi thu tiền sử dụng khác phải sử dụng Biên lai C28.
Thứ ba, về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án:
Khoản 2 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”.
Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định về việc áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án quy định:
1. Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế để thi hành án.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì bạn có quyền yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Nhưng tài sản phải thuộc quyền sở hữu, quản lý, sử dụng của người phải thi hành án để đảm bảo cho việc thi hành án theo quy định.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 184/2011/TTLT-BTC-BTP Hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
Nghị định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự
Thông tư 91/2010/TT-BTC Hướng dẫn kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Tổng cục Thi hành án dân sự
10. Công an can thiệp vào thi hành án dân sự đúng hay sai?
2.Công an bắt THA cũng như nhà tôi phải chia đều bán đấu giá mới chịu tham gia cưỡng chế đúng hay sai?
3. Gia đình chúng tôi phải làm gì khi công an không chịu hợp tác trong việc bảo vệ cưỡng chế để THA giao tài sản cho bên trúng đấu giá?
Gửi bởi: Do Minh Vu
Trả lời có tính chất tham khảo
Câu hỏi bạn không nói rõ việc thi hành án ở thời điểm nào. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản dưới luật hướng dẫn như sau:
1. Khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định “Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì gia đình bạn thuộc diện được ưu tiên thi hành án đối với khoản tiền bán đấu giá tài sản có cầm cố, thế chấp để đảm bảo cho việc thi hành án.
2. Khoản 1,2 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên như sau:
“Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền”.
“Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên”.
Khoản 2 Điều 169 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an trong thi hành án dân sự như sau:
“Chỉ đạo cơ quan Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành án, phối hợp bảo vệ kho vật chứng của cơ quan thi hành án dân sự trong trường hợp cần thiết”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì cơ quan Công an có nhiệm vụ bảo vệ việc tổ chức cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên mà không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phải thanh toán tiền thi hành án cho những người được thi hành án không thuộc diện được ưu tiên theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự.
3. Khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 14 ngày 11/7/2011 Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo thi thi hành án dân sự “Tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan, tổ chức hữu quan với cơ quan thi hành án dân sự trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự đối với những trường hợp quy định tại Điều 1 của Thông tư liên tịch này”.
Như vậy, nếu cơ quan Công án không phối hợp trong việc cưỡng chế thi hành án thì Cơ quan thi hành án dân sự báo cáo vụ việc với Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự cấp trên theo quy định.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Thông tư liên tịch 14/2011/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Tổng cục Thi hành án dân sự
11. Yêu cầu người đang quản lý, sử dụng đất giao đất cho người được thi hành án
Gửi bởi: Nguyen Thi Huyen
Trả lời có tính chất tham khảo
Trường hợp bạn hỏi, vợ chồng ông A, bà B phải trả vợ chồng ông C, bà D 100m2 đất thì đây là việc thi hành án về nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất. Do đó, nếu ông A, bà B không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 117 Luật Thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, việc thi hành án chưa xong thì bà B chết, vì vậy phát sinh vấn đề chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 54 Luật Thi hành án dân sự. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án không ra quyết định thi hành án mới mà thực hiện việc thi hành án này theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự”. Theo đó, trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải thi hành án đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan thi hành án ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật.
Vì thế, cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu ông A và vợ mới của ông A đang quản lý, sử dụng 100 m2 đất giao đất cho người được thi hành án theo quy định nêu trên.
Các văn bản liên quan:
Thông tư liên tịch 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
12. Thi hành theo bản án
Gửi bởi: Nguyễn Thu Huyền
Trả lời có tính chất tham khảo
Khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự quy định người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.
Bản án năm 2010 xác định A, sinh năm 1992 phạm tội cố ý gây thương tích cho B và tuyên mẹ A phải bồi thường sức khoẻ cho B 5.000.000 đồng thì mẹ A là người phải thi hành khoản tiền 5.000.000 đồng đó. Về nguyên tắc, cơ quan thi hành án dân sự phải thi hành đúng nội dung bản án của Toà án, do đó nếu chưa có bản án mới của Toà án quyết định A phải thi hành án bồi thường thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục yêu cầu mẹ của A phải thi hành khoản tiền chưa thi hành xong. Tuy nhiên, nếu phát hiện A có tài sản thì cơ quan thi hành án cũng cần động viên A nộp tiền, tài sản để thi hành bản án.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
13. Thi hành án dân sự với người không có tài sản
Gửi bởi: Đỗ Đình Dũng
Trả lời có tính chất tham khảo
Trong trường hợp bạn nêu, cơ quan thi hành án dân sự kiểm tra và xác nhận người phạm tôi không có tài sản, gia đình người phạm tội khó khăn không có khả năng bồi thường thì cơ quan thi hành án dân sự trả lại đơn yêu cầu thi hành án. Bởi vì khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;
b) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
c) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;
d) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thoả thuận khác.
Trong trường hợp nếu vụ việc chưa được trả đơn yêu cầu thi hành án nhưng người phạm tội đã bị thi hành án tử hình thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự do người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn – Tổng cục Thi hành án dân sự
14. Yêu cầu thi hành án dân sự
Gửi bởi: Hồ Thị Minh Linh
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo bản án và quyết định của Tòa án thì kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bị đơn có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại toàn bộ khoản chi phí mai táng là 100 triệu đồng cho gia đình bạn.
Tại Điều 51 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy đình về việc trả đơn yêu cầu thi hành án như sau:
“1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;
b) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
c) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án;
d) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thoả thuận khác.
2. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành.”
Khoản 1 Điều 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.”
Như vậy, việc bạn đã làm đơn yêu cầu thi hành án nhưng đến nay vẫn chưa được thi hành, bạn cần làm việc rõ với cơ quan thi hành án dân sự nơi đang thi hành vụ việc.
Nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì sẽ bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật.
Nếu người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án sẽ trả lại đơn yêu cầu thi hành án theo quy định. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này, kể từ ngày phát hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành.
Các văn bản liên quan:
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Chuyên viên pháp lý – Tổng cục Thi hành án dân sự
Tham khảo thêm:
- Vỡ hụi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không
- Tai nạn trong hẻm do có rượu bia phân định thế nào?
- Bị mượn bằng để làm giấy phép, nghỉ việc có hủy giấy phép được không
- Quán café diện tích khoảng 300 m2 có cần phòng cháy chữa cháy
- Quan hệ với bạn gái trên 16 tuổi thuận tình liệu có phạm tội không?
- Đăng ký tạm trú cho người nước ngoài
- Người nước ngoài ở Việt Nam có cần đăng ký tạm trú không?
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi về Việt Nam có phải trình báo không?
- Không có KT3 vẫn được nhập hộ khẩu thành phố Hồ Chí Minh?
- Thủ tục đăng ký kết hôn giữa 2 người Việt Nam đang tạm trú ở nước ngoài?
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.