Bình luận, đánh giá các quy định về lao động giúp việc gia đình trong Bộ luật Lao động sửa đổ bổ sung năm 2019.
Báo cáo mới của Tổ chức lao động thế giới (ILO) ngày 15/6/2021 về người lao động giúp việc gia đình đã đưa ra dữ liệu cho thấy hiện nay trên thế giới có 75,6 triệu lao động giúp việc gia đình (4.5% người lao động)1. Một con số tỷ lệ đáng kể trong lực lượng lao động xã hội, lao động giúp việc gia đình đã, đang và sẽ có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội toàn cầu. Tuy nhiên trên thực tế lao động giúp việc gia đình vẫn bị đánh giá thấp, bị coi là lao động có trình độ kém, hầu như không được quan tâm dẫn đến bị phân biệt đối xử về điều kiện làm việc và dễ bị lạm dụng nhân quyền.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm lao động giúp việc gia đình
Định nghĩa đầu tiên về lao động giúp việc gia đình được Tổ chức lao động quốc tế đưa ra năm 1951. Theo đó, nhiều quốc gia trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa về loại hình lao động này. Để thống nhất cách hiểu chung và ghi nhận những đóng góp quan trọng của lao động giúp việc gia đình thì ngày 16/6/2011, ILO đã thông qua Công ước số 189 về việc làm bền vững cho lao động giúp việc gia đình. Theo đó, “ người lao động giúp việc gia đình (domestic worker) là bất kỳ người nào thực hiện công việc trông gia đình có quan hệ việc làm; một người chỉ thực hiện công việc trong gia đình theo dịp hoặc không thường xuyên và không có tính chất nghề nghiệp thì không phải là người lao động giúp việc gia đình”.
Ở Việt Nam, BLLĐ 2012 đã quy định cụ thể đầu tiên về lao động giúp việc gia đình, song BLLĐ 2019 vẫn giữ nguyên khái niệm tại điều 161 như sau: “Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình.
Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại”.
1.2 Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình
– Lao động giúp việc gia đình thực hiện thường xuyên các công việc trong gia đình: đây có thể coi là nét đặc trưng của loại hình lao động này vì công việc của họ được lặp đi lặp lại mỗi ngày (nấu ăn, trông trẻ, lau dọn nhà cửa,…).
– lao động giúp việc gia đình làm việc trong môi trường khép kín, đơn lẻ: bởi những nét đặc thù của công việc, các lao động giúp việc gia đình rất ít có sự giao lưu với bên ngoài, không tham gia các tổ chức đoàn thể nên dễ phải đối mặt với các nguy cơ: mắng chửi, đánh đập, đe dọa, lạm dụng tình dục,…
– lao động giúp việc gia đình chủ yếu là lao động nữ và có trình độ học vấn thấp: theo dữ liệu của ILO mới ngày 15/6/2021 vừa qua thì trên thế giới, có khoảng 57,7 triệu phụ nữ làm giúp việc, chiếm 76,2% tổng số lao động giúp việc gia đình, chiếm phần lớn lực lượng lao động ở châu Âu, Trung Á và châu Mỹ. Ở Việt Nam, phụ nữ làm giúp việc chiếm 90%, tiếp đó là những công việc chăm sóc, bảo mẫu chiếm 6,6%2. lao động giúp việc gia đình phần lớn là nhữn người có trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp.
1.3 Vai trò của lao động giúp việc gia đình
Thứ nhất, vai trò đối với chính lao động giúp việc gia đình: có việc làm, tạo thu nhập ổn định, đảm bảo chi tiêu và góp phần cải thiện cuộc sống cho gia đình và địa phương. Ngoài ra, thu nhập của người lao động từ giúp việc gia đình còn là nguồn tiết kiệm, tích lũy, phòng tránh rủi ro xảy ra.
Thứ hai, vai trò đối với NSDLĐ sử dụng lao động giúp việc gia đình: được san sẻ những gánh nặng về công việc gia đình, từ đó chuyên tâm thực hiện công việc, tạo ra thu nhập cao hơn. Mặt khác, lao động giúp việc gia đình còn là giải pháp hiệu quả trong việc chăm sóc tốt cho các thành viên trong gia đình, ưu việt hơn so với dịch vụ như nhà trẻ, viện dưỡng lão,..
Thứ ba, vai trò đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước: khi thu nhập của NLĐ và NSDLĐ tăng cao sẽ góp phần ổn định đời sống xã hội, đây cũng là một trong những điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm an sinh xã hội của đất nước.
2. ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH
2.1 Pháp luật về hợp đồng lao động đối với lao động giúp việc gia đình
ILO và đa số các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận GVGĐ là một nghề, người làm nghề GVGĐ là một người lao động được bình đẳng như những người lao động khác. Như vậy, cần có một hình thức pháp lý để xác lập quan hệ lao động giữa lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ. HĐLĐ là hình thức pháp lý BLLĐ 2019 quy định bắt buộc đối với lao động giúp việc gia đình.
2.1.1 Chủ thể giao kết hợp đồng lao động
Chủ thể giao kết HĐLĐ GVGĐ là người lao động giúp việc gia đình và người sử dụng lao động. Trong đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên được quyền trực tiếp ký HĐLĐ, người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền ký kết HĐLĐ nhưng phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.
Có thể thấy, pháp luật lao động đã rộng mở cơ hội cho phép trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể làm công việc GVGĐ nếu công việc đó nhẹ nhàng, phù hợp với lứa tuổi, thời gian làm việc không vượt quá thời gian pháp luật quy định. Tuy nhiên, điểm hạn chế là độ tuổi dưới 18 là người chưa có kinh nghiệm và kỹ năng sống, ứng phó với các tình huống dẫn đến dễ bị xâm hại, đặc biệt phần lớn lao động giúp việc gia đình lại là nữ. Một số liệu khảo sát tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cho biết có tới 17,3% lao động giúp việc gia đình bắt đầu từ độ tuổi dưới 18.
2.1.2 Hình thức và nội dung của HĐLĐ
BLLĐ 2019 quy định “Người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động là người giúp việc gia đình.”3 Nội dung HĐLĐ phải tuân thủ khoản 1 Điều 21 BLLĐ. Quy định này chủ yếu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nhưng dường như thực tế cả người GVGĐ và người sử dụng lao động đều không muốn bị ràng buộc về mặt pháp lý với nhau nên việc thực hiện quy định này không dễ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, trên 90% HĐLĐ GVGĐ được thỏa thuận bằng lời nói. Pháp luật cần có biện pháp linh hoạt và răn đe để thay đổi nhận thức của NSDLĐ và lao động giúp việc gia đình, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước để kịp thời phát hiện và xử lý đối với những trường hợp vi phạm.
2.1.3 Thủ tục giao kết HĐLĐ
HĐLĐ GVGĐ phải tuân theo thủ tục: (i) Cung cấp thông tin trước khi giao kết HĐLĐ; (ii) Thử việc; (iii) Ký kết HĐLĐ; (iv) Thông báo với UBND cấp xã.
Lao động giúp việc gia đình là đối tượng có nhiều nét đặc trưng nên pháp luật quy định các thủ tục nh m các bên đạt được mong muốn, lợi ích tối đa. Đặc biệt cần phải thông báo đến cơ quan có thẩm quyền vì có liên quan đến con người, tạm trú,..Tuy nhiên thì quy định này ít được thực hiện bởi NSDLĐ có thể thay đổi người giúp việc liên tục nên họ rất ngại khai báo hoặc khai báo một lần nhưng lại thay đổi rất nhiều NLĐ khác. Như vậy, pháp luật cần cân nhắc các giải pháp trong vấn đề quản lý lao động giúp việc gia đình.
2.1.4 Thực hiện, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ đối với lao động giúp việc gia đình
Khi HĐLĐ được kí kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng. Tạm hoãn HĐLĐ đối với lao động giúp việc gia đình trong trường hợp NLĐ mang thai và do hai bên thỏa thuận. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên, pháp luật quy định về các trường hợp chấm dứt HĐLĐ GVGĐ. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 162 mỗi bên có quyền chấm dứt HĐLĐ bất kì lúc nào nhưng phải báo trước 15 ngày để bên kia còn chuẩn bị và không bị động.
2.1.5 Quyền, nghĩa vụ của các bên khi chấm dứt HĐLĐ
Khi chấm dứt HĐLĐ các bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ cho nhau các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong HĐLĐ. Đối với NLĐ, khi chấm dứt HĐLĐ sẽ được NSDLĐ trả trợ cấp thôi việc trừ một số trường hợp. Ngoài ra còn được thanh toán tiền nghỉ phép năm, tiền tàu xe, các giấy tờ và các khoản nợ (nếu có) trong 7 ngày, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. NSDLĐ có trách nhiệm thanh toán các quyền lợi nói trên và thông báo đến cơ quan có thẩm quyền trong vòng 7 ngày.
2.2 Pháp luật về điều kiện lao động đối với lao động giúp việc gia đình
2.2.1 Quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động giúp việc gia đình
Về thời giờ làm việc: được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, đồng thời quỹ thời gian làm việc cũng có sự khác nhau giữa 2 độ tuổi của NLĐ là người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi và người đủ 18 tuổi trở lên.
Để đảm bảo sức khỏe cho lao động giúp việc gia đình chưa thành niên, pháp luật có quy định riêng tại Điều 146 BLLĐ 2019. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc lao động giúp việc gia đình làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm nên dễ gây nên sự lạm dụng trong sử dụng lao động từ phía NSDLĐ.
Về thời giờ nghỉ ngơi: được quy định cụ thể tại chương VII BLLĐ 2019. Cụ thể lao động giúp việc gia đình phải được nghỉ ít nhất 8 giờ trong đó có 6 giờ liên tục trong 24 giờ liên tục. Quy định này đảm bảo cho NLĐ có được sự nghỉ ngơi sau nhiều giờ liên tục làm việc, tránh sự lạm dụng của NSDLĐ do sống cùng gia đình với họ.
2.2.2 Quy định pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao động đối với lao động giúp việc gia đình
Điều 13 Công ước 189 của ILO quy định mọi người lao động giúp việc gia đình có quyền được làm việc trong một môi trường an toàn và vệ sinh. Khoản 5 Điều 89 Nghị định 145/2020/NĐ-CP đã quy định vấn đề an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình. Tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả NSDLĐ đều thực hiện hết trách nhiệm của mình và lao động giúp việc gia đình có thể không biết đến tất cả các quyền lợi của mình được hưởng. Hơn nữa, pháp luật cần nhận thức về những nguy cơ an toàn vệ sinh lao động đột xuất trong quá trình lao động và có cơ chế điều tiết cũng như các biện pháp đảm bảo cho lao động giúp việc gia đình.
2.3 Pháp luật về điều kiện sử dụng lao động đối với lao động giúp việc gia đình
2.3.1 Pháp luật về tiền lương
Tiền lương là vấn đề mà bất kì NLĐ nào cũng đều quan tâm bởi đó ảnh hưởng tới cuộc sống của chính NLĐ và gia đình họ. Khoản 3 Điều 162 BLLĐ 2019 quy định: “3. Hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động về hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hằng ngày, chỗ ở”. Quy định này phù hợp với nguyên tắc chung về chế độ tiền lương, bản chất của quan hệ lao động. Tại NĐ 145/2020/NĐ-CP quy định: “tiền lương của người lao động thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 90 của Bộ luật Lao động bao gồm mức lương theo công việc, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác nếu có. Mức lương theo công việc bao gồm cả chi phí tiền ăn, ở của người lao động tại gia đình người sử dụng lao động (nếu có) không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố. Người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận mức chi phí ăn, ở hằng tháng của người lao động (nếu có), tối đa không quá 50% mức lương theo công việc ghi trong hợp đồng lao động”.
Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc khi thực hiện quy định trên là với quy định mức lương (bao gồm cả chi phí ăn, ở của người lao động sống cùng gia đình người sử dụng lao động nếu có) sẽ gây khó khăn trong việc xác định và gây nhầm lẫn trên thực tế. Quy định này có thể sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng lao động lợi dụng để đưa ra mức tiền lương không tương xứng với sức lao động của người lao động. Bởi trên thực tế phần lớn 105 mức lương hiện nay là do gia đình chủ đề xuất và quyết định (có 80,6% trường hợp mức lương hiện nay là do gia đình chủ đề xuất và 92,8% trường hợp do gia đình chủ quyết định mức lương này).
2.3.2 Pháp luật về BHXH, BHYT đối với lao động giúp việc gia đình
Theo quy định NSDLĐ có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương của lao động giúp việc gia đình một khoản tiền tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật để người lao động chủ động tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. So với BLLĐ năm 2012 với BLLĐ năm 2019 dường như không có sự thay đổi nhiều, chỉ thay cụm từ để người lao động tự lo bảo hiểm thành để người lao động chủ động tham gia BH H, BH T . Dù là tự lo hay chủ động tham gia BH H thì theo quy định của pháp luật hiện hành người lao động giúp việc gia đình vẫn chỉ thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, như vậy sẽ không thể đảm bảo được hết các quyền lợi cho người lao động.
2.3.3 Pháp luật trong lĩnh vực kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Người sử dụng lao động và người lao động xác định cụ thể các hành vi, hình thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất theo quy định tại khoản 2 Điều 118 và Điều 129 của Bộ luật Lao động và ghi trong hợp đồng lao động hoặc thể hiện bằng hình thức thỏa thuận khác 4. Có hai hình thức xử lý kỷ luật lao động áp dụng đối với người lao động bao gồm khiển trách, sa thải theo khoản 1, khoản 4 Điều 124 của Bộ luật Lao động.
2.4 Pháp luật về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực lao động giúp việc gia đình
Theo các tài liệu của ILO ghi nhận lao động giúp việc gia đình, đặc biệt là lao động giúp việc gia đình làm việc tại nước ngoài là đối tượng lao động dễ bị bóc lột và lạm dụng. Tại Việt Nam, các hành vi bị nghiêm cấm đối với NSDLĐ khi có lao động giúp việc gia đình được quy định rõ tại Điều 165 BLLĐ 2019. Các quy định này cũng thống nhất với các quy định về hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động (Điều 8 BLLĐ), góp phần cảnh báo và là cơ sở để xử lý vi phạm đối với người sử dụng lao động có hành vi. Hiện nay vấn đề xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lao động giúp việc gia đình được quy định tại Nghị Định 28/2020/NĐ-CP.
Khác với BLLĐ 2012 thì BLLĐ 2019 quy định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tại Điều 187 bao gồm: Hòa giải viên lao động, tòa án nhân dân và bổ sung thêm cơ hội đồng trọng tài lao động. Tranh chấp lao động giữa người GVGĐ với người sử dụng lao động không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.
Quy định này là hợp lý bởi người lao động giúp việc gia đình ở vị thế yếu thế hơn trong quan hệ lao động với người sử dụng lao động. Mặt khác, do đặc thù của công việc GVGĐ rất dễ bị người sử dụng lao động xâm phạm quyền lợi, lạm dụng sức lao động, ngược đãi và các hành vi phạm pháp luật khác. Hơn nữa, lao động giúp việc gia đình chủ yếu là những người lao động xuất thân từ nông thôn, trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết pháp luật lao động, lại không có tổ chức đại diện để đứng ra bảo vệ họ nên khi tham gia hòa giải họ có khả năng rơi vào vị thế bất lợi hơn khi thỏa thuận với phía người sử dụng lao động.
Về thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động giữa lao động giúp việc gia đình và NSDLĐ cũng tuân theo quy định về thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân nói chung được quy định tại Điều 189 BLLĐ năm 2019. Quy định như vậy là phù hợp với yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp lao động, cần giải quyết nhanh chóng nh m khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đã bị xâm phạm, giúp người lao động có thể tiếp tục công việc bình thường, giải tỏa mâu thuẫn, bất động giữa các bên, duy trì và củng cố quan hệ lao động.
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
BLLĐ 2019 đã kế thừa và phát triển những quy định về lao động giúp việc gia đình của BLLĐ 2012 nhưng xét thấy vẫn tồn đọng một số bất cập trên thực tế, lao động giúp việc gia đình là bên yếu thế, cần phải được bảo vệ. Chính vì lý do đó, em xin đề xuất một số kiến nghị đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ lao động giúp việc gia đình đồng thời hướng đến mục tiêu đưa GVGĐ trở thành việc làm bền vững cho người lao động.
Thứ nhất, đối với pháp luật về hợp đồng lao động giúp việc gia đình cần bổ sung thêm quy định về hậu quả của tạm hoãn HĐLĐ GVGĐ. Hiện pháp luật cho phép người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với lao động giúp việc gia đình nếu hết thời hạn tạm hoãn HĐLĐ mà người lao động không có mặt. Tuy nhiên, trường hợp nếu người lao động có lý do chính đáng thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ không Việc bổ sung quy định này sẽ là cơ sở để bảo vệ quyền lợi cho người lao động giúp việc gia đình, đồng thời cũng là căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Thứ hai, điều chỉnh quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi theo hướng quy định tổng số giờ làm việc trong ngày, trong tuần, tổng số giờ nghỉ ngơi tối thiểu, quy định cụ thể về thời gian làm thêm giờ đối với lao động giúp việc gia đình. Bổ sung quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với lao động giúp việc gia đình sống cùng gia đình người sử dụng lao động.
Thứ ba, cần bổ sung các quy định về đảm bảo điều kiện sống cho lao động giúp việc gia đình.
Thứ tư, bổ sung quy định về đào tạo nghề, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề đối với lao động giúp việc gia đình và cấp chứng chỉ nghề cho lao động giúp việc gia đình. Đồng thời cũng cần quy định tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về lao động giúp việc gia đình để đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm. Hơn nữa, cũng cần có quy định về nhiệm vụ của thanh tra lao động trong việc thanh tra, kiểm tra hộ gia đình sử dụng lao động giúp việc gia đình.
GVGĐ là một công việc đã xuất hiện, tồn tại từ lâu ở các quốc gia trên thế giới và cả ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển kinh tế, lao động giúp việc gia đình ngày càng có vai trò quan trọng với sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, pháp luật về lao động giúp việc gia đình bên cạnh những ưu điểm vẫn không tránh khỏi tồn tại, hạn chế, thiếu sự linh hoạt và hiệu quả thực thi không cao. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật cũng cần chú trọng tới những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình trong đó việc tăng cường công tác thông tin, tuyền thông về lao động giúp việc gia đình thay đổi thái độ, nhận thức, quan điểm của xã hội về nghề GVGĐ, nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động giúp việc gia đình là một trong những giải pháp quan trọng cần hướng tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật lao động 2012;
2. Bộ luật lao động 2019;
3. Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động;
4. Nghị định 28/2020/NĐ-CP định xử phạt hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
5. Đỗ Thị Dung (chủ nhiệm đề tài) (2017), Pháp luật lao động Việt Nam về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường ĐH Luật Hà Nội.
6. Đỗ Thị Dung (chủ biên) (2018), Pháp luật về lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
7. Lã Trọng Đại (2014), Những vấn đề nảy sinh trong quan hệ lao động giúp việc gia đình và giải pháp khắc phục , Tạp chí Lao động và xã hội;
8. Quỳnh Anh, Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị, , “ILO: Cần công nhận giúp việc gia đình là một nghề chính thức”,16/6/2021;
Các bài luận liên quan:
- Quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
- Thực trạng pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá và giải pháp hoàn thiện
- Truyền thông quốc tế – Đặc điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam, xu thế nghiên cứu
- Nguyên tắc chiếm hữu thực sự trong Luật quốc tế và việc áp dụng nguyên tắc này vào việc xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
- Sự khác biệt và tương đồng điển hình trong đào tạo Luật ở Anh và Mỹ
- Phương pháp thương lượng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp lĩnh vực thương mại
- Bình luận về lợi nhuận và việc phân phối lợi nhuận trong hoạt động tài chính doanh nghiệp
- Bình luận các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
- Đánh giá các quy định pháp luật về chế độ thai sản
- Phân tích các điều kiện đảm bảo cho pháp luật đi vào đời sống
Để được tư vấn hướng dẫn trực tiếp cho tất cả các vướng mắc, đưa ra lời khuyên pháp lý an toàn nhất, quý khách vui lòng liên hệ Luật sư - Tư vấn pháp luật qua điện thoại 24/7 (Miễn phí) số: 1900.0191 để gặp Luật sư, Chuyên viên tư vấn pháp luật.